Con đường phát triển truyền thống của thế kỷ 20 bao gồm tăng trưởng do sản xuất dẫn đầu và chuyển dịch từ nông nghiệp sang sản xuất. Tuy nhiên, trong những thập kỷ qua, tỷ trọng giá trị gia tăng của sản xuất đã giảm ở hầu hết các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là ở Đông Âu và Trung Á. Điều này phản ánh cả áp lực cạnh tranh toàn cầu và xu hướng phi công nghiệp hóa sớm (Nayyar và cộng sự, 2023). Với việc Trung Quốc chiếm 35% sản lượng sản xuất toàn cầu vào năm 2020 (tăng từ 5% vào năm 1995), những người mới tham gia phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trong việc thiết lập các cơ sở sản xuất (Baldwin, 2024a).
Đồng thời, sự phát triển của công nghệ số, cơ sở hạ tầng được cải thiện và ít rào cản chính sách hơn đã khiến các dịch vụ dễ giao dịch hơn qua biên giới, với chi phí giao dịch dịch vụ giảm 9% từ năm 2000 đến năm 2017 (WTO 2019). Trong các dịch vụ, các dịch vụ có thể giao dịch được bằng công nghệ số – đặc biệt là các dịch vụ đổi mới toàn cầu như dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chuyên nghiệp và dịch vụ khoa học và kỹ thuật – có tiềm năng tăng trưởng cao (Baldwin, 2024b). Trong công trình gần đây (EBRD 2024), chúng tôi ghi lại sự chuyển dịch sang lĩnh vực dịch vụ và thảo luận về các chính sách hỗ trợ sự chuyển dịch sang các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Liệu tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sản xuất có còn khả thi không?
Trong khi dữ liệu cho thấy tăng trưởng thường vẫn do xuất khẩu dẫn đầu, thì hiện nay có nhiều khả năng do xuất khẩu dịch vụ dẫn đầu (Hình 1). Phân tích của chúng tôi cho thấy, kể từ năm 2008, các nền kinh tế EBRD ở EU ngày càng chuyển sang tăng trưởng do dịch vụ dẫn đầu và ở một tỷ lệ đáng kể các nền kinh tế EBRD khác, tăng trưởng ít có khả năng do xuất khẩu sản xuất dẫn đầu. Ở các nền kinh tế thị trường mới nổi khác, hiện nay tăng trưởng gần như có khả năng do xuất khẩu dịch vụ dẫn đầu như không do xuất khẩu dẫn đầu.
Sự chuyển dịch này hướng tới tăng trưởng do dịch vụ dẫn đầu đã được hỗ trợ bởi các công nghệ kỹ thuật số giúp các dịch vụ có thể lưu trữ, mã hóa và chuyển nhượng được nhiều hơn, giảm nhu cầu nhà sản xuất và người tiêu dùng phải ở gần nhau tại thời điểm giao hàng, cũng như cải thiện mối liên kết của họ với các lĩnh vực khác. Đặc biệt, các dịch vụ đổi mới toàn cầu có thể được giao dịch quốc tế thông qua giao hàng xuyên biên giới từ xa, họ chủ yếu sử dụng lao động lành nghề và có mối liên kết chặt chẽ với các lĩnh vực trong nước khác. Mặc dù họ thường chưa chiếm phần lớn giá trị gia tăng trong lĩnh vực dịch vụ ở châu Âu mới nổi, nhưng một số nền kinh tế đã định vị mình là những nước xuất khẩu chính các dịch vụ máy tính và thông tin. Estonia, Ukraine, Serbia, Armenia, Bắc Macedonia và Moldova nằm trong số mười nước xuất khẩu dịch vụ máy tính hàng đầu thế giới so với GDP vào năm 2022, cùng với các trung tâm công nghệ đã thành lập như Israel và Ấn Độ. Các quốc gia này đã tận dụng hệ thống giáo dục kỹ thuật mạnh mẽ của mình – di sản từ quá khứ cộng sản – để phát triển lợi thế cạnh tranh trong các dịch vụ CNTT.
Cần có sự quản lý chặt chẽ và nguồn nhân lực cao để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ
Không phải tất cả các quốc gia đều có vị thế tốt như nhau để theo đuổi tăng trưởng do dịch vụ dẫn dắt. Các nền kinh tế có quản trị mạnh hơn, lực lượng lao động có trình độ học vấn cao hơn và các lĩnh vực dịch vụ tự do hơn có khả năng thành công hơn trong xuất khẩu dịch vụ có giá trị cao (Hình 2). Trong khi nhiều quốc gia thành viên EU có cả nguồn nhân lực và năng lực thể chế cần thiết, các nền kinh tế khác phải đối mặt với những thách thức khác nhau. Các quốc gia như Jordan, Kazakhstan, Moldova, Serbia và Ukraine có thể được hưởng lợi từ việc cải thiện môi trường quản lý của họ, trong khi Ai Cập, Morocco, Tunisia và Türkiye phải đối mặt với một thách thức kép: họ phải nâng cao cả cơ sở kỹ năng và khuôn khổ thể chế của mình để tận dụng đầy đủ các cơ hội xuất khẩu dịch vụ.
Các dịch vụ ngày càng quan trọng trong chính ngành sản xuất
Ở các nền kinh tế tiên tiến của châu Âu, các ngành nghề liên quan đến dịch vụ chiếm 55% tổng số ngành nghề trong lĩnh vực sản xuất vào năm 2019, tăng từ mức khoảng 45% vào năm 2000. Sự ‘dịch vụ hóa’ sản xuất này phản ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của các hoạt động trước và sau sản xuất như RD, thiết kế, tiếp thị và dịch vụ sau bán hàng. Hungary, nơi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) chiếm 62% tổng kim ngạch xuất khẩu, cung cấp một nghiên cứu điển hình sâu sắc (Bisztray và cộng sự 2024).
Từ năm 2008 đến năm 2019, tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu đi kèm với dịch vụ từ cùng một công ty đã tăng 20 điểm phần trăm. Sự tăng trưởng này chủ yếu được thúc đẩy bởi các nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, với các nhà giao dịch hai chiều về hàng hóa và dịch vụ chiếm 17,5% các công ty có vốn đầu tư nước ngoài so với chỉ 0,7% các công ty trong nước vào năm 2019 (Hình 3). Các công ty này thường đóng gói các sản phẩm sản xuất với các dịch vụ bổ sung như kỹ thuật hoặc bảo trì, có khả năng tăng giá trị gia tăng. Dữ liệu cũng cho thấy sự tập trung đáng kể các công ty xuất khẩu dịch vụ ở các khu vực thành thị có nền tảng kỹ năng vững chắc, đặc biệt là Budapest, nơi có nhiều trung tâm RD và các cơ sở dịch vụ chung cho các công ty đa quốc gia như Deutsche Telekom, IBM và Thyssenkrupp.
Làm thế nào chúng ta có thể thúc đẩy sự chuyển dịch sang các dịch vụ có năng suất?
Cách tiếp cận chính sách nhẹ nhàng đã hiệu quả đối với sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang sản xuất – không đầu tư đáng kể vào kỹ năng của người lao động hoặc cải thiện rộng rãi khuôn khổ quản trị và quy định – sẽ không hiệu quả nữa vào lúc này. Tự động hóa đã làm giảm lợi ích của việc có nhiều lao động không có kỹ năng giá rẻ, trong khi đổi mới trong sản xuất đang làm tăng nhu cầu về các kỹ năng cụ thể (Rodrik và Sandhu 2024). Hơn nữa, các dịch vụ đổi mới toàn cầu như dịch vụ CNTT và gia công quy trình kinh doanh đòi hỏi lao động có kỹ năng, đầu tư vào vốn vật chất, công nghệ và đổi mới, cũng như cơ sở hạ tầng vững mạnh, các thể chế kinh tế mạnh mẽ và môi trường kinh doanh thuận lợi (Atolia và cộng sự 2020).
Việc tự do hóa thương mại dịch vụ có thể cho phép các nền kinh tế nhắm đến một số mục tiêu dễ đạt được về mặt tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu sang các dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Phân tích của chúng tôi cho thấy rằng trong khi tiếp cận thị trường là quan trọng đối với xuất khẩu dịch vụ, thì việc tự do hóa thị trường dịch vụ của riêng bạn có tác động lớn hơn so với việc giảm rào cản thương mại ở các quốc gia đích. Ước tính của Gravity cho thấy việc giảm các hạn chế trong nước đối với thương mại dịch vụ có thể thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ khoảng 9%. Đối với các dịch vụ kỹ thuật số nói riêng, tác động có thể còn lớn hơn, với việc nới lỏng các hạn chế thương mại kỹ thuật số liên quan đến việc tăng xuất khẩu dịch vụ lên tới 20%. Việc áp dụng các khuôn khổ pháp lý rõ ràng và minh bạch, chẳng hạn như luật bảo vệ dữ liệu tương đương với GDPR, cũng có thể tạo điều kiện cho thương mại dịch vụ xuyên biên giới bằng cách thống nhất các tiêu chuẩn và giảm chi phí tuân thủ cho các công ty hoạt động quốc tế.
Các chính sách công nghiệp mục tiêu khác, chẳng hạn như thúc đẩy đầu tư, có thể hỗ trợ sự chuyển dịch sang các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, nhưng hiệu quả của chúng phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của nhà nước. Vào năm 2023, EBRD đã tiến hành một cuộc khảo sát trực tuyến các cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA), thu thập dữ liệu về các lĩnh vực mục tiêu, các chiến lược được sử dụng và thời điểm thực hiện các sáng kiến có liên quan. Thông tin thu thập được đã được kết hợp với dữ liệu từ cơ sở dữ liệu FT fDi Markets – một tập dữ liệu cấp dự án về các dự án FDI – để đánh giá hiệu quả của các chính sách nhắm mục tiêu theo lĩnh vực.
Kết quả cho thấy trung bình, các chính sách nhắm mục tiêu theo ngành có tác động tích cực đáng kể: Mười năm sau khi triển khai, các ngành mục tiêu chứng kiến số lượng dự án FDI nhiều gấp 2,8 lần so với các ngành không mục tiêu. Tuy nhiên, Hình 4 cho thấy các tác động tích cực hoàn toàn được thúc đẩy bởi các dự án liên quan đến dịch vụ (như trung tâm RD, dịch vụ kinh doanh và cơ sở hạ tầng ICT) ở các quốc gia có mức năng lực nhà nước tương đối cao hơn, với mức sau được đo lường thông qua các chỉ số về hiệu quả của chính phủ, chất lượng quản lý và pháp quyền (O’Reilly và Murphy 2022). Các quốc gia có năng lực nhà nước yếu hơn không thấy sự khác biệt đáng kể giữa các ngành mục tiêu và không mục tiêu, và không có tác động đáng kể nào đến các khoản đầu tư theo định hướng sản xuất bất kể năng lực nhà nước như thế nào.
Kết luận
Đối với các nhà hoạch định chính sách muốn thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu hướng tới các dịch vụ năng suất cao, có ba bài học chính. Đầu tiên, các nguyên tắc cơ bản là quan trọng – đầu tư vào giáo dục, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và quản trị là những điều kiện tiên quyết thiết yếu.
Thứ hai, việc giảm bớt các hạn chế đối với thương mại dịch vụ có thể thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ, đặc biệt là đối với các dịch vụ được hỗ trợ kỹ thuật số. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xóa bỏ mọi quy định – các khuôn khổ rõ ràng như luật tương đương GDPR có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại bằng cách thiết lập các quy tắc minh bạch.
Thứ ba, trong khi các chính sách công nghiệp có mục tiêu như thúc đẩy đầu tư có thể có hiệu quả, hiệu quả của chúng phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nhà nước và các khả năng hiện có. Do đó, các quốc gia nên sắp xếp các cải cách một cách cẩn thận, xây dựng các khả năng cơ bản trước khi theo đuổi các chính sách tích cực hơn.
Quá trình chuyển đổi sang tăng trưởng do dịch vụ dẫn đầu mang đến cả cơ hội và thách thức cho các nền kinh tế mới nổi. Trong khi con đường phát triển do sản xuất dẫn đầu truyền thống có thể đang thu hẹp, các công nghệ kỹ thuật số mới và khả năng giao dịch ngày càng tăng của các dịch vụ đang tạo ra các tuyến đường thay thế cho việc làm năng suất cao và tăng trưởng kinh tế. Thành công sẽ đòi hỏi các lựa chọn chính sách thận trọng và đầu tư bền vững vào vốn con người và các thể chế trong trung hạn.
💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘