Lưu trữ cho từ khóa: [Tiêu điểm hôm nay]

Liệu Trump 2.0 có tốt cho thị trường như Trump 1.0 không?

Tài sản của Hoa Kỳ tăng vọt sau cuộc bầu cử của Trump, phản ánh kỳ vọng về sự lặp lại của nhiệm kỳ đầu tiên tăng trưởng và thị trường của ông. Kể từ đầu tháng 10 khi tỷ lệ chiến thắng của Trump tăng lên, cổ phiếu Hoa Kỳ đã vượt trội hơn cổ phiếu ngoài Hoa Kỳ gần 12%, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm đã tăng +66 điểm cơ bản (bps) và đồng đô la Mỹ (USD) tăng +5,9%. Sự lạc quan của thị trường dựa trên giả định rằng sự thúc đẩy từ chi tiêu thâm hụt (cắt giảm thuế) và bãi bỏ quy định sẽ lớn hơn bất kỳ lực cản nào đối với tăng trưởng từ thuế quan và hạn chế nhập cư.
Các nhà phân tích chính trị nghi ngờ rằng một khoản thâm hụt lớn hơn có thể được thông qua tại Hạ viện Cộng hòa với đa số mong manh như vậy. Mặc dù đúng là các chính sách nhiệm kỳ đầu của Trump (ví dụ như cắt giảm thuế) có tác động tích cực đến tăng trưởng và thị trường, nhưng khả năng lặp lại là không cao trong bối cảnh chính trị hiện tại. Chúng tôi kết luận rằng hỗn hợp chính sách có khả năng được ban hành sẽ là tiêu cực đối với tăng trưởng, dẫn đến tác động -60 điểm cơ bản đối với tăng trưởng của Hoa Kỳ (-70 điểm cơ bản đối với tăng trưởng toàn cầu) và một lần tăng +80 điểm cơ bản đối với lạm phát của Hoa Kỳ vì những lý do sau:
Không cắt giảm thuế ròng : Chi tiêu tài chính và cắt giảm thuế bổ sung có thể sẽ gây thất vọng, vì Quốc hội sẽ phải tập trung vào gánh nặng vốn đã rất lớn là gia hạn Đạo luật Cắt giảm Thuế và Việc làm năm 2017 (TCJA) với chi phí 4,7 nghìn tỷ đô la trong 10 năm, và việc cắt giảm thuế mới không được tài trợ hoặc chi tiêu bổ sung sẽ khó khăn về mặt chính trị dưới thời Hạ viện Cộng hòa chỉ có thể mất 3-4 phiếu. Trong số hai chục thành viên Cộng hòa Hạ viện có tư tưởng tài chính, ít nhất một số ít có khả năng sẽ cản trở việc cắt giảm thuế bổ sung, vì hiện tại họ đang nhắm đến mục tiêu giảm một nửa chi phí gia hạn TCJA.
Ngay cả mức thuế khiêm tốn cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng: Kết quả có khả năng xảy ra nhất là mức tăng 20% ​​thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và ô tô Mexico/EU, với khả năng áp dụng mức thuế mạnh hơn là nhỏ hơn. Ước tính có trọng số xác suất của chúng tôi cho thấy mức tăng trưởng của Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng là -75 bps. Giả sử doanh thu thuế quan được tái chế thành chi tiêu tài chính, thì mức tăng trưởng ròng của Hoa Kỳ do thuế quan sẽ bị ảnh hưởng là -40 bps. Mức tăng trưởng ròng tương đương do thuế quan sẽ bị ảnh hưởng là -70 bps, trong đó Trung Quốc là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất (-80 bps).1
Giảm 20 điểm cơ bản do hạn chế nhập cư: Theo các quy định về tị nạn và chính sách biên giới chặt chẽ hơn, lượng nhập cư có thể giảm từ hơn 3,3 triệu vào năm 2023 xuống còn 0,7 triệu mỗi năm.2
Tác động tối thiểu đến tăng trưởng trong ngắn hạn từ việc bãi bỏ quy định : Mặc dù việc bãi bỏ quy định sẽ có tác động tích cực trong ngắn hạn đối với một số lĩnh vực nhất định (ví dụ như tài chính, năng lượng) và tích cực trong dài hạn, nhưng không có khả năng tác động đáng kể đến toàn bộ nền kinh tế trong 12 tháng tới.
Chúng tôi kỳ vọng Fed sẽ tiếp tục nới lỏng gần hơn với mức lãi suất trung lập 3-3,5% vào cuối năm 2025, khi họ xem xét việc điều chỉnh mức giá một lần của thuế quan và tập trung vào tác động tăng trưởng yếu hơn của các chính sách nêu trên. Đối với thị trường, tăng trưởng yếu hơn, lạm phát tạm thời tăng cao và việc Fed tiếp tục nới lỏng sẽ hỗ trợ cho trái phiếu, đặc biệt là khi không có biện pháp nới lỏng tài khóa lớn nào (ngoài việc gia hạn cắt giảm thuế của Trump năm 2017), nhưng có thể làm suy yếu các cổ phiếu đắt đỏ và bị mua quá mức.
HIỂN THỊ 1
Các khoản thâm hụt hiện tại quá lớn để có thêm các biện pháp kích thích (Giả sử việc cắt giảm thuế của Trump được gia hạn)
Liệu Trump 2.0 có tốt cho thị trường như Trump 1.0 không?_1

Nguồn: Nhóm GMA, FactSet, Haver. Tính đến ngày 25 tháng 11 năm 2024. Nợ chính phủ tính theo phần trăm GDP là nợ chính phủ gộp tính theo phần trăm GDP. Hiệu suất chỉ số chỉ nhằm mục đích minh họa và không nhằm mục đích mô tả hiệu suất của một khoản đầu tư cụ thể. Hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo cho kết quả trong tương lai. Dự báo/ước tính dựa trên các điều kiện thị trường hiện tại, có thể thay đổi và không nhất thiết phải xảy ra.

HIỂN THỊ 2
Tổng thuế quan sẽ tăng từ 2,5% lên 9% trong kịch bản thuế quan vừa phải
Liệu Trump 2.0 có tốt cho thị trường như Trump 1.0 không?_2

Nguồn: Nhóm GMA, FactSet, Haver. Tính đến ngày 25 tháng 11 năm 2024. Hiệu suất chỉ số chỉ nhằm mục đích minh họa và không nhằm mục đích mô tả hiệu suất của một khoản đầu tư cụ thể. Hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo kết quả trong tương lai. Dự báo/ước tính dựa trên điều kiện thị trường hiện tại, có thể thay đổi và không nhất thiết phải xảy ra.

HIỂN THỊ 3
Lực cản khiêm tốn từ sự sụt giảm nhập cư ròng từ 3,3 triệu mỗi năm xuống dưới 1 triệu
Liệu Trump 2.0 có tốt cho thị trường như Trump 1.0 không?_3

Nguồn: Nhóm GMA, FactSet, Haver. Tính đến ngày 25 tháng 11 năm 2024. Hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo kết quả trong tương lai . Dự báo/ước tính dựa trên điều kiện thị trường hiện tại, có thể thay đổi và không nhất thiết phải xảy ra.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Tại sao đồng đô la Úc sẽ gặp khó khăn vào năm 2025

Thị trường đang trải qua biến động đáng kể khi các chính sách của ngân hàng trung ương, các chỉ số kinh tế và diễn biến địa chính trị định hình bối cảnh tài chính. Bình luận gần đây của Luca Santos từ ICI Securities làm sáng tỏ cách các yếu tố này đang ảnh hưởng đến đồng đô la Mỹ, chính sách của Cục Dự trữ Liên bang và đồng đô la Úc.

Con đường phía trước của Cục Dự trữ Liên bang

Cục Dự trữ Liên bang đã chỉ ra việc tiếp tục cắt giảm lãi suất, mặc dù có khả năng chậm hơn so với dự đoán trước đây. Thị trường dự kiến ​​sẽ cắt giảm 25 điểm cơ bản vào tháng 12, với các điều chỉnh tiếp theo vào đầu năm 2025. Tuy nhiên, có suy đoán rằng việc cắt giảm có thể tạm dừng hoặc giảm dần khi Fed đánh giá lạm phát, vẫn cao hơn ở châu Âu. Cách tiếp cận thận trọng này phản ánh hành động cân bằng của Fed giữa việc duy trì tăng trưởng kinh tế và quản lý rủi ro lạm phát.
Sự khác biệt giữa Fed và Ngân hàng Trung ương châu Âu ôn hòa hơn đã góp phần làm đồng đô la Mỹ mạnh hơn. Xu hướng này cũng được hỗ trợ bởi những bất ổn địa chính trị, bao gồm cả ảnh hưởng dự kiến ​​của chính quyền Trump sắp tới.

Áp lực lên đồng đô la Úc

Đồng đô la Úc tiếp tục suy yếu so với đồng đô la Mỹ, giao dịch quanh mức 64–65 cent. Các nhà phân tích dự đoán đồng đô la Úc có thể giảm thêm xuống còn 62 cent trong quý đầu tiên của năm 2025. Các yếu tố chính thúc đẩy sự suy giảm này bao gồm GDP của Úc đang suy giảm và Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) không muốn cắt giảm lãi suất. Trong khi một số ngân hàng trung ương đang tích cực cắt giảm lãi suất, RBA vẫn duy trì lập trường thận trọng, viện dẫn lạm phát dai dẳng và chi tiêu của người tiêu dùng kiên cường.
Mặc dù lãi suất cao, người dân Úc vẫn rút tiền tiết kiệm để hỗ trợ mua bất động sản và chi tiêu, làm phức tạp thêm nỗ lực kiềm chế lạm phát của RBA. Động thái này, cùng với tăng trưởng GDP yếu hơn dự kiến, khiến nền kinh tế Úc rơi vào tình thế khó khăn.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Nhiều câu hỏi hơn câu trả lời sau khi lập kế hoạch NFP

Báo cáo thị trường lao động Hoa Kỳ chưa có kết luận rõ ràng vào thứ sáu khiến những người tham gia có lẽ còn nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời khi tuần giao dịch mới bắt đầu, chỉ còn hai tuần “thực sự” nữa là đến kỳ nghỉ lễ thực sự.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tạo thêm 227 nghìn việc làm vào tháng 11, cao hơn một chút so với kỳ vọng đồng thuận và gần như đau đớn với ước tính của riêng tôi là +235 nghìn. Thêm vào đó, hai bản in trước đó đã được điều chỉnh cao hơn với mức ròng +56 nghìn, đưa mức tăng việc làm trung bình động 3 tháng lên mức cao nhất kể từ tháng 5. Tất nhiên, một phần đáng kể trong số việc làm tăng được thấy vào tháng 11 là sự đảo ngược của tình trạng mất việc làm liên quan đến thời tiết và đình công xảy ra một tháng trước đó.
Trong khi đó, thu nhập trung bình theo giờ tiếp tục tăng trưởng ở mức ổn định, điều này sẽ giúp duy trì tốc độ chi tiêu của người tiêu dùng, mặc dù không đe dọa đến mục tiêu lạm phát 2% trong trung hạn. Tăng trưởng 0,4% theo tháng và 4,0% theo năm không thay đổi so với tốc độ ghi nhận vào tháng 10, nhưng tôi cho rằng một số người theo chủ nghĩa diều hâu của FOMC có thể muốn điều này sớm lắng xuống.
Tuy nhiên, đây là cuộc khảo sát hộ gia đình có nhiều lý do để lo ngại hơn, mặc dù cần phải thận trọng vì tính bất ổn của cuộc khảo sát trong chu kỳ này và tỷ lệ phản hồi đang giảm. Trong mọi trường hợp, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 4,2%, chỉ thấp hơn một chút so với mức cao nhất trong chu kỳ là 4,3% vào tháng 7, trong khi tỷ lệ tham gia giảm xuống còn 62,5%, mức thấp nhất kể từ tháng 5.
Vậy thì cốt lõi là – sự phục hồi vững chắc trong bảng lương, tăng trưởng thu nhập mạnh mẽ, cùng với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Một chút khó hiểu, đối với những người tham gia thị trường và các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên, tôi cho rằng sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp sẽ đủ để củng cố lập luận cho việc cắt giảm 25 điểm cơ bản của Fed vào tháng 12, nếu chỉ vì lý do là nó củng cố ý tưởng rằng ‘con đường ít hối tiếc nhất’ chỉ theo hướng như vậy. Nếu các nhà hoạch định chính sách lo ngại về việc trì hoãn tiến trình giảm phát, hoặc rủi ro lạm phát tiềm ẩn trong những ngày đầu nhiệm kỳ tổng thống của Trump, thì có lẽ họ có thể ‘bỏ qua’ cuộc họp vào tháng 1.
Nhìn chung, những người tham gia đều đón nhận báo cáo việc làm một cách thoải mái, mặc dù con số này tất nhiên giảm vào thời điểm khá kỳ lạ trong năm, khi thanh khoản mỏng và khối lượng giao dịch thấp hơn đáng kể so với bình thường.
Cổ phiếu kết thúc ngày trong sắc xanh, với Nasdaq thiên về công nghệ dẫn đầu đà tăng, trong khi chỉ số chuẩn SP 500 đạt mức đóng cửa cao nhất mọi thời đại thứ 57 trong năm. Chỉ còn 16 ngày giao dịch nữa, kỷ lục 77 ATH trong một năm dương lịch của năm 1995 sẽ không bị phá vỡ, nhưng phe mua vẫn sẽ nắm quyền kiểm soát, vì bối cảnh kinh tế và chính sách vẫn hỗ trợ, để lại những đợt giảm giá như cơ hội mua, mặc dù có thể niềm tin sẽ giảm dần khi năm sắp kết thúc.
Trong khi đó, đồng đô la dao động nhưng cuối cùng lại giảm nhẹ sau báo cáo NFP vào thứ Sáu, mặc dù điều này không đủ để ngăn đồng đô la ghi nhận mức tăng hàng tuần – đây là mức tăng thứ 9 trong 10 tuần qua so với một rổ các đồng tiền khác. Tôi vẫn tin tưởng chắc chắn vào khả năng đồng đô la Mỹ sẽ tăng giá thêm nữa, vì rủi ro xung quanh triển vọng của FOMC ngày càng trở nên hai mặt vào năm 2025 và khi nền kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục vượt trội hơn hẳn so với các đồng tiền khác. Một số nhu cầu trú ẩn trong bối cảnh rủi ro địa chính trị gia tăng, đặc biệt là diễn biến vào cuối tuần ở Syria, cũng có thể hỗ trợ thêm cho xu hướng tăng giá, ở mức biên độ.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Tổng hợp thị trường: Bitcoin đạt 100.000 đô la, OPEC+ hoãn tăng sản lượng

Giấc mơ 100.000 đô la của Bitcoin đã trở thành hiện thực
Giấc mơ Bitcoin đạt 100.000 đô la đã trở thành hiện thực vào sáng thứ năm…
Giá tăng vọt hơn 6%, phá vỡ cột mốc quan trọng này khi các nhà đầu tư hoan nghênh việc Trump chọn người lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch.
Tình cảm đối với không gian tiền điện tử cũng được thúc đẩy bởi những bình luận gần đây của Chủ tịch Fed khi so sánh Bitcoin với vàng nhưng “chỉ là ảo, nó là kỹ thuật số”.
Đạt 100.000 đô la chắc chắn là một cột mốc quan trọng và có thể hỗ trợ đà tăng trong thời gian còn lại của năm 2024. Sự kiện quan trọng tiếp theo có thể tác động đến Bitcoin có thể là báo cáo NFP vào thứ Sáu, có khả năng ảnh hưởng đến quyết định cắt giảm lãi suất của Fed.
Nhìn vào biểu đồ, Bitcoin đang có xu hướng tăng giá mạnh mẽ – với mức tăng trưởng tính đến thời điểm hiện tại là hơn 140%.
Mức đóng cửa tuần mạnh mẽ trên 100.000 đô la có thể báo hiệu đà tăng giá tiếp theo.
Tuy nhiên, nếu giá giảm xuống dưới mức quan trọng này, phe bán có thể nhắm tới mức 95.000 đô la.Tổng hợp thị trường: Bitcoin đạt 100.000 đô la, OPEC+ hoãn tăng sản lượng _1
OPEC+ có thể trì hoãn…
Giá dầu ban đầu giảm vào thứ năm sau khi OPEC+ quyết định hoãn tăng sản lượng dầu trong ba tháng. Tuy nhiên, mức lỗ đã được thu hồi khi các nhà đầu tư xem xét kỹ lưỡng các chi tiết của kế hoạch sản lượng mới.
Tuy nhiên, OPEC+ đang ở trong tình thế khó khăn khi sản lượng tăng có thể dẫn đến giá dầu giảm.
Ngay cả khi họ quyết định trì hoãn sản xuất sau tháng 4, điều này vẫn có thể gây ra tranh chấp nội bộ đồng thời làm tăng nguy cơ xảy ra chiến tranh giá cả.
Ngoài ra, việc Trump trở lại Nhà Trắng cũng gây ra thêm một yếu tố bất ổn cho liên minh, từ việc siết chặt lệnh trừng phạt đối với các thành viên OPEC cho đến thuế quan tác động đến nhu cầu của Trung Quốc.
Nhìn vào bức tranh kỹ thuật, Brent vẫn nằm trong phạm vi trên biểu đồ hàng tuần với mức hỗ trợ là 70,00 đô la và mức kháng cự là 76,00 đô la. Một sự đột phá có thể sắp xảy ra.Tổng hợp thị trường: Bitcoin đạt 100.000 đô la, OPEC+ hoãn tăng sản lượng _2

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Khả năng chi trả của các hệ thống chăm sóc dài hạn trong thời đại dân số già hóa nhanh chóng

Dân số già hóa đang tăng tốc nhanh chóng. Trên khắp các quốc gia OECD, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đã tăng gấp đôi từ dưới 9% vào năm 1960 lên 18% vào năm 2021 (OECD 2023) và dự kiến ​​sẽ đạt 27% vào năm 2050, làm tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc dài hạn (Kotschy và Bloom 2022). Đồng thời, áp lực công chúng ngày càng tăng nhằm giảm gánh nặng chăm sóc cho các gia đình và cá nhân để ủng hộ nguồn tài trợ của chính phủ và cung cấp dịch vụ chăm sóc dài hạn (Ilinca và Simmons 2022). Kết hợp với chi phí chăm sóc tăng cao (OECD 2023), những xu hướng này đang tạo thêm áp lực lên tính bền vững về mặt tài chính của các hệ thống chăm sóc dài hạn công. Đảm bảo khả năng so sánh giữa các quốc gia về chi phí và lợi ích của các chương trình chăm sóc dài hạn công tại 32 quốc gia OECD và EU, một báo cáo mới của OECD so sánh chi phí chăm sóc dài hạn hiện tại giữa các quốc gia và đưa ra bằng chứng về hiệu quả của chi tiêu công trong việc giảm bớt gánh nặng tài chính cho người nhận dịch vụ chăm sóc.

Mặc dù có sự hỗ trợ của công chúng, dịch vụ chăm sóc dài hạn vẫn nằm ngoài khả năng chi trả của nhiều người cao tuổi

Nếu không có đủ sự hỗ trợ của công chúng, hầu hết người cao tuổi sẽ không đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc dài hạn. Chi phí chăm sóc dài hạn trung bình cho những người có nhu cầu chăm sóc thấp, hiện đã chiếm 42% thu nhập trung bình của người cao tuổi (không có sự hỗ trợ của công chúng), có thể lên tới 259% đối với những người có nhu cầu chăm sóc nghiêm trọng. Mặc dù tất cả các quốc gia OECD có trong báo cáo đều chi trả ít nhất một phần chi phí thông qua các chương trình phúc lợi, nhưng chi phí cá nhân phải trả vẫn rất lớn, đặc biệt là đối với những người cao tuổi có nhu cầu nghiêm trọng (xem Hình 1). Trung bình, những chi phí này chiếm hơn 70% thu nhập trung bình của người cao tuổi trên khắp các quốc gia OECD, ngay cả sau khi tính đến bảo trợ xã hội công. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia được phân tích. Ở các quốc gia Bắc Âu như Phần Lan, Iceland và Đan Mạch, chi phí tự trả vẫn dưới 5% thu nhập trung bình, trong khi ở Ý và Estonia, những chi phí này vượt quá 150%, trên thực tế đẩy người lớn tuổi vào cảnh nghèo đói hoặc khiến họ không được đáp ứng nhu cầu chăm sóc.
Khả năng chi trả của các hệ thống chăm sóc dài hạn trong thời kỳ dân số già hóa nhanh_1
Chi phí tự trả cao cho dịch vụ chăm sóc dài hạn làm tăng đáng kể nguy cơ nghèo đói ở người cao tuổi (xem Hình 2). Trung bình, tỷ lệ nghèo đói đối với người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc dài hạn cao hơn 31 phần trăm so với dân số cao tuổi nói chung. Các hệ thống chăm sóc dài hạn ở các nước Scandinavia, Luxembourg và Hà Lan nằm trong số những hệ thống hiệu quả nhất trong việc giảm rủi ro nghèo đói liên quan đến chi phí chăm sóc. Ngược lại,nguy cơ nghèo đói trong số những người nhận dịch vụ chăm sóc dài hạn ở Ý và Tây Ban Nha cao hơn nhiều – hơn 60 điểm phần trăm – so với tổng dân số cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên).
Khả năng chi trả của các hệ thống chăm sóc dài hạn trong thời kỳ dân số già hóa nhanh_2

Các lựa chọn chính sách để giải quyết nhu cầu ngày càng tăng đối với các dịch vụ chăm sóc dài hạn

Chi phí tăng, nhu cầu ngày càng tăng và mức tăng năng suất thấp đang gây áp lực tài chính đáng kể lên các hệ thống chăm sóc dài hạn công. Báo cáo của OECD phân tích cách áp lực tài chính này có thể tác động đến chi tiêu chăm sóc dài hạn trong tương lai theo các kịch bản khác nhau (xem Hình 3). Trong kịch bản đầu tiên (‘kịch bản già hóa’) – trong đó các quốc gia duy trì mức hỗ trợ hiện tại và tỷ lệ người lớn tuổi có nhu cầu được chăm sóc dài hạn hiện tại – chi phí dự kiến ​​sẽ tăng trung bình 91% vào năm 2050. Trong kịch bản thứ hai (‘kịch bản bao phủ cao’), giả định tỷ lệ người lớn tuổi có nhu cầu chăm sóc tăng lên 60%, chi phí sẽ tăng 144%. Cuối cùng, trong ‘kịch bản không đồng thanh toán’, các chi phí cá nhân được loại bỏ hoàn toàn và chi phí chăm sóc dài hạn tăng hơn 300%.
Khả năng chi trả của các hệ thống chăm sóc dài hạn trong thời kỳ dân số già hóa nhanh_3
Mặc dù dân số già hóa là điều không thể tránh khỏi, các quốc gia có thể giúp những người cao tuổi áp dụng lối sống lành mạnh hơn và đưa ra các biện pháp phòng ngừa để giảm sự phụ thuộc và các vấn đề sức khỏe lâu nhất có thể. Các chương trình như thăm khám tại nhà ở các nước Scandinavia đã chứng minh được hiệu quả về mặt chi phí bằng cách tăng số năm năng động, khỏe mạnh (Kronborg và cộng sự, 2006). Các chính sách như vậy có thể giảm 13% chi tiêu cho chăm sóc dài hạn trong tương lai so với kịch bản cơ sở có phạm vi bao phủ cao (xem kịch bản lão hóa khỏe mạnh, Hình 3).
Mặc dù tăng trưởng năng suất lao động trong lĩnh vực chăm sóc dài hạn vẫn ở mức thấp hoặc thậm chí là âm (OECD 2023), các công nghệ mới nổi có thể được sử dụng tốt hơn để giúp giảm tổng chi phí chăm sóc. Các mô phỏng của OECD cho thấy nếu tăng trưởng năng suất trong chăm sóc dài hạn đạt tới một nửa mức tăng trưởng năng suất trung bình của toàn bộ nền kinh tế, thì chi tiêu cho chăm sóc dài hạn vào năm 2050 có thể thấp hơn 13% so với kịch bản cơ sở có phạm vi bao phủ cao (xem kịch bản tăng trưởng năng suất, Hình 3). Các công cụ hỗ trợ mới lấy người dùng làm trung tâm, chẳng hạn như cảm biến môi trường và cảm biến đeo được, có thể hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc dài hạn trong việc giám sát, định vị,và nhận biết các chuyển động vật lý (Bibbò và cộng sự, 2022). Người chăm sóc ảo cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng, hỗ trợ cả người nhận chăm sóc và người cung cấp dịch vụ chăm sóc trong việc quản lý các tình trạng như tiểu đường, trầm cảm và suy tim (Bin Sawad và cộng sự, 2022).
Mặc dù thuế là nguồn tài trợ chăm sóc dài hạn phổ biến nhất, một số quốc gia đã đưa ra bảo hiểm chăm sóc dài hạn công cộng để đạt được sự chia sẻ rủi ro tốt hơn và giải quyết các thách thức về tính minh bạch. Ví dụ, Slovenia đã đưa ra chương trình bảo hiểm chăm sóc dài hạn vào năm 2023, nhằm mục đích tạo ra một hệ thống toàn diện hơn, cải thiện tính minh bạch về tài trợ và tránh làm tăng nợ của khu vực công.
Với nguồn lực công hạn chế, các quốc gia có thể ưu tiên hỗ trợ những cá nhân có nhu cầu nhất: những người có thu nhập thấp và những người có nhu cầu chăm sóc dài hạn nghiêm trọng. Một ví dụ về chính sách như vậy sẽ là giới hạn chi phí cá nhân ở mức 60%, 40% và 20% chi phí chăm sóc cho người lớn tuổi có nhu cầu thấp, trung bình và nghiêm trọng tương ứng. Mô phỏng của chúng tôi cho thấy cách tiếp cận kiểm tra nhu cầu như vậy có thể là một lựa chọn hấp dẫn đối với các quốc gia như Latvia, Malta và Hungary. Trong những trường hợp này, mô phỏng chỉ ra rằng chiến lược này có thể giảm tổng chi tiêu cho chăm sóc dài hạn công mà không làm tăng đáng kể nguy cơ nghèo đói ở những người nhận chăm sóc (OECD 2024).
Hơn nữa, việc chia sẻ chi phí theo hướng tiến bộ hơn trên toàn bộ phân phối thu nhập có thể giúp quản lý ngân sách chăm sóc dài hạn và hạn chế tình trạng nghèo đói ở những người nhận chăm sóc. Gần 90% các quốc gia OECD và EU được phân tích trong báo cáo áp dụng một số hình thức kiểm tra thu nhập để xác định mức hỗ trợ, nhưng những cá nhân có thu nhập thấp vẫn phải đối mặt với nguy cơ nghèo đói cao hơn đáng kể. Việc tối ưu hóa kiểm tra thu nhập để tập trung vào các nhóm dân số dễ bị tổn thương có thể cải thiện thêm kết quả. Ở khoảng một phần ba các quốc gia OECD được phân tích, cách tiếp cận này dẫn đến chi tiêu chăm sóc dài hạn thấp hơn và giảm nghèo đói trong số những người nhận chăm sóc, hoặc ít nhất là kiềm chế chi tiêu mà không làm tăng tỷ lệ nghèo đói (OECD 2024).

Kết luận

Đạt được quyền tiếp cận công bằng với dịch vụ chăm sóc dài hạn và tính bền vững về mặt tài chính của các hệ thống công trong bối cảnh dân số già hóa là một thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách. Phân tích của OECD cho thấy rằng các hệ thống hiện tại thường không đủ khả năng chi trả và không được nhắm mục tiêu tốt: vẫn còn nhiều chỗ để cải thiện và cải cách. Việc thúc đẩy quá trình lão hóa lành mạnh, chủ động sử dụng các công nghệ mới để nâng cao năng suất của ngành chăm sóc, sửa đổi các quy tắc đủ điều kiện để cho phép phạm vi bao phủ có mục tiêu và toàn diện hơn, đa dạng hóa các nguồn tài trợ và tối ưu hóa việc kiểm tra thu nhập đều là các lựa chọn chính sách khả thi. Mỗi lựa chọn đều đáng để khám phá trong quá trình tìm kiếm các hệ thống chăm sóc dài hạn có khả năng phục hồi, có thể chống chọi với những thay đổi về nhân khẩu học và nhu cầu xã hội đang thay đổi.

Người chăm sóc ảo cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng, hỗ trợ cả người nhận dịch vụ chăm sóc và người cung cấp dịch vụ trong việc quản lý các tình trạng như tiểu đường, trầm cảm và suy tim (Bin Sawad và cộng sự, 2022).

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Bạc: Sự phá vỡ quan trọng đang đến gần khi bảng lương tăng mạnh

Bạc không có mối tương quan đặc biệt với bất kỳ loại tài sản lớn nào trong tháng qua, thậm chí là vàng, cho thấy đây có thể là môi trường mà tín hiệu giá có trọng lượng hơn các yếu tố khác. Hiện đang nằm giữa ngưỡng kháng cự xu hướng giảm và ngưỡng hỗ trợ xu hướng tăng, và với việc công bố bảng lương phi nông nghiệp tháng 11 đang đến gần, một động thái quyết định có thể sớm cung cấp manh mối định hướng trung hạn.
Thời gian đang trôi qua cho sự đột phá tăng giá
Bạc đã phục hồi mạnh mẽ kể từ khi chạm đáy ở mức 29,66 đô la vào cuối tháng 11, tăng trong xu hướng tăng để kiểm tra lại mức kháng cự xu hướng giảm được thiết lập vào đầu tháng này. Với bốn lần thất bại cho đến nay – không bao gồm doji chuồn chuồn của thứ năm – cơ hội cho một đột phá tăng giá có vẻ đang thu hẹp trước khi bản thân xu hướng tăng bị đe dọa.
Theo quan điểm động lượng, RSI (14) đang có xu hướng tăng, trong khi MACD đã vượt qua từ bên dưới, củng cố xu hướng tăng giá. Điều này hỗ trợ sở thích mua vào khi giá giảm hoặc giá phá đỉnh trong thời gian tới.Bạc: Sự phá vỡ quan trọng đang đến gần khi bảng lương tăng cao _1
Nếu giá phá vỡ và giữ trên xu hướng giảm, một thiết lập sẽ là mua với mức dừng lỗ chặt chẽ bên dưới mục tiêu đẩy lên mức 32,18 đô la hoặc 33,10 đô la, hai mức ngang đóng vai trò là hỗ trợ và kháng cự trong quá khứ gần đây.
Trong khi đường trung bình động 50 ngày nằm ngay phía trên xu hướng giảm ở mức 31,71 đô la, giá có thành tích đáng nể khi duy trì ở mức này, nghĩa là giá nên được theo dõi nhưng không phải là trở ngại cho việc mua vào.
Ngoài ra, nếu giá đảo ngược xuống thấp hơn và phá vỡ hỗ trợ xu hướng tăng, một lựa chọn khác là bán với mức dừng lỗ chặt chẽ trên xu hướng tăng để bảo vệ. 29,66 đô la là một mục tiêu tiềm năng với đường trung bình động 200 ngày và 29,10 đô la tiếp theo sau đó.
Suy ngẫm về bảng lương
Mặc dù bạc không cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa với đồng đô la Mỹ hoặc lợi suất trái phiếu kho bạc gần đây, báo cáo bảng lương của Thứ sáu là một sự kiện vĩ mô quan trọng có thể thay đổi kỳ vọng cho cả hai. Vì bạc được định giá bằng đô la Mỹ và không mang lại lợi suất, nên nó vẫn có liên quan đối với các nhà giao dịch.
Với thị trường định giá 70% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào cuối tháng này, ngay cả một sự gia tăng nhẹ trong tỷ lệ thất nghiệp từ 4,1% cũng có thể tạo ra bối cảnh hỗ trợ cho các tài sản rủi ro như bạc. Tuy nhiên, một báo cáo nóng, với mức tăng trưởng bảng lương mạnh hơn và tỷ lệ thất nghiệp giảm bất ngờ, có thể hỗ trợ đồng đô la Mỹ và nâng cao kỳ vọng về lãi suất, tạo thêm áp lực giảm giá cho giá bạc.
Nguồn: FOREX

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Cập nhật về Quỹ thu nhập: Điều hướng việc cắt giảm lãi suất với sự linh hoạt và tập trung vào chất lượng cao

Lợi suất vẫn ở mức cao, làm tăng thêm sức hấp dẫn của trái phiếu, trong khi sự biến động và bất ổn kinh tế tạo ra môi trường lý tưởng cho hoạt động quản lý tài sản chủ động, theo quan điểm của chúng tôi. Tại đây, Dan Ivascyn, người quản lý Quỹ thu nhập PIMCO cùng với Alfred Murata và Josh Anderson, trả lời các câu hỏi của Esteban Burbano, chiến lược gia về thu nhập cố định. Họ thảo luận về cách quỹ được định vị cho mức lợi suất cao hiện tại và con đường tiềm năng cho lãi suất chính sách của ngân hàng trung ương. Chúng tôi tin rằng Hoa Kỳ rất có thể sẽ hạ cánh mềm, nhưng chúng tôi cũng lưu ý đến sự gia tăng bất ổn kinh tế và địa chính trị.
H: Chúng tôi đã chứng kiến ​​hoạt động kinh tế và thị trường đáng kể trong vài tháng qua. Những điểm chính bạn rút ra là gì?
A: Một diễn biến chính là Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã khởi động chu kỳ cắt giảm lãi suất: Cục này đã hạ lãi suất chính sách 50 điểm cơ bản tại cuộc họp vào tháng 9 và thêm 25 điểm cơ bản nữa vào tháng 11. Mặc dù Fed có thể sẽ tiếp tục phụ thuộc vào dữ liệu, chúng tôi kỳ vọng ngân hàng trung ương sẽ tiếp tục nới lỏng trong vài quý tới. Điều thú vị là sau khi cắt giảm lãi suất vào tháng 9, lợi suất của các chứng khoán có kỳ hạn dài hơn đã tăng đáng kể. Chúng tôi đã không thấy động thái này trong một thời gian khá dài và chúng tôi đang theo dõi chặt chẽ khi đánh giá vị thế của đường cong lợi suất và thời hạn.
Cuộc bầu cử Hoa Kỳ là một sự kiện khác mà các nhà đầu tư theo dõi chặt chẽ. Mặc dù hậu quả dài hạn vẫn chưa rõ ràng, nhưng các động thái của thị trường sau bầu cử cho thấy nhiều nhà đầu tư dự đoán một môi trường chính sách tài khóa và quản lý hỗ trợ tăng trưởng của Hoa Kỳ. Và điều này có nghĩa là chúng ta cũng nên theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu lạm phát tái phát.
Về điểm đó, lạm phát của Hoa Kỳ nhìn chung vẫn tiếp tục ở mức vừa phải, nhưng các con số vẫn còn bấp bênh. Và sau một số dấu hiệu suy yếu kinh tế, dữ liệu gần đây hơn cho thấy nền kinh tế có khả năng phục hồi tốt hơn.
Kết quả là mặc dù chúng tôi rất phấn khích về lợi suất, bao gồm cả lợi suất điều chỉnh theo lạm phát, các xu hướng vĩ mô khiến chúng tôi dự đoán một môi trường thị trường biến động sắp tới. Các giai đoạn biến động trong bối cảnh các chu kỳ kinh tế toàn cầu ít đồng bộ hơn thường là thời điểm tuyệt vời để quản lý tài sản chủ động.
Trường hợp cơ bản của chúng tôi, có vẻ như được các nhà đầu tư chia sẻ rộng rãi, là một sự hạ cánh mềm mại cho nền kinh tế Hoa Kỳ, vốn đang mở rộng với tốc độ khoảng 3% hàng năm. Tất nhiên, kịch bản này đã được định giá vào thị trường tín dụng và cổ phiếu, chênh lệch đã thu hẹp và chúng tôi tin rằng sự lạc quan đang dẫn đến sự tự mãn ở một số phân khúc thị trường tín dụng chất lượng thấp hơn.
Nhận thức rủi ro là rất quan trọng. Nếu nền kinh tế tiếp tục mở rộng và xu hướng chung là tích cực, thì việc phân biệt một khoản đầu tư kiên cường so với một khoản đầu tư tích cực hơn với nhiều rủi ro giảm giá hơn có thể là một thách thức. Chúng tôi thấy rất nhiều điều không chắc chắn và nhiệm vụ của chúng tôi là nhắm mục tiêu vào các lĩnh vực chất lượng cao hơn của thị trường, nơi chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể tạo ra lợi nhuận tương tự như những lợi nhuận thường thấy ở các lĩnh vực nhạy cảm hơn về mặt kinh tế hoặc địa chính trị của thị trường, nhưng với biện pháp giảm thiểu rủi ro phù hợp.
H: Ông nghĩ thế nào về những yếu tố rủi ro chính đó, bao gồm thời hạn (rủi ro lãi suất), trong bối cảnh Quỹ thu nhập ?
A: Trong vài năm qua, đây là một môi trường giàu mục tiêu trên khắp Quỹ thu nhập và các chiến lược PIMCO khác của chúng tôi. Chúng tôi đã tích cực hơn nhiều trong việc quản lý thời hạn chiến thuật so với thập kỷ trước và chúng tôi tin rằng điều này đã góp phần vào hiệu suất của chúng tôi so với các phương pháp tiếp cận thụ động.
Hôm nay, chúng ta đang ở mức trung lập về thời hạn, xét đến những gì thị trường định giá cho việc cắt giảm của Fed cũng như tác động của cuộc bầu cử. Về biên độ, chúng ta thậm chí có thể phân loại mức độ phơi nhiễm của mình là hơi phòng thủ về thời hạn so với các chuẩn mực thụ động.
Tôi sẽ nói thêm rằng chúng tôi có một cơ hội toàn cầu linh hoạt nằm ngoài Hoa Kỳ. Chúng tôi đang sử dụng sự linh hoạt đó để nhắm mục tiêu vào các thị trường lãi suất ở Úc và Vương quốc Anh, ví dụ, cùng với một số thị trường mới nổi chất lượng cao hơn có lợi suất điều chỉnh theo lạm phát thậm chí còn cao hơn ở Hoa Kỳ.
H: Tiếp theo về thành phần thời hạn, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, bạn có thể cung cấp một số thông tin chi tiết về vị thế đường cong lợi suất của quỹ không?
A: Chúng tôi cho rằng đường cong dốc hơn sẽ có tác động đến nhu cầu đối với tài sản có thu nhập cố định nói chung. Trong nhiều năm, lãi suất tiền mặt mang lại mức lợi nhuận hấp dẫn đến mức rất nhiều tiền chảy vào các chiến lược nhắm vào các khoản tiếp xúc ban đầu.
Hiện tại, lợi suất trái phiếu đầu kỳ đang giảm và bất ổn kinh tế đang gia tăng. Chúng tôi đã giữ vị thế đường cong dốc trong một thời gian và hiện tại chúng tôi có xu hướng thiên về phần đường cong kỳ hạn từ năm đến 10 năm.
Ngoài ra, với sự biến động gần đây trong dữ liệu vĩ mô và sự thay đổi trong quan điểm về chính sách của Fed, chúng tôi đã tham gia vào giao dịch chính xác hơn xung quanh quỹ đạo và thời điểm cắt giảm lãi suất của Fed. Ví dụ, chỉ vài tháng trước, chúng tôi nhận thấy rằng có một chút nới lỏng quá mức được nhúng vào phần đầu của đường cong, theo quan điểm của chúng tôi, điều này tạo cơ hội để khai thác các quan điểm đó trong định vị đường cong tương đối.
Chúng tôi không có nhiều khả năng tiếp xúc với các kỳ hạn dài hơn, xét theo triển vọng cơ bản của chúng tôi. Và nếu chúng tôi bước vào một môi trường kinh tế đầy thách thức hơn, nơi các ngân hàng trung ương cần cắt giảm lãi suất chính sách mạnh mẽ hơn nhiều so với mức giá được định giá, thì vị thế đường cong mà chúng tôi nắm giữ sẽ giúp cung cấp thêm khả năng phục hồi cho quỹ.
H: Chúng ta hãy đi sâu vào tài sản được chứng khoán hóa và phần tín dụng của quỹ, bắt đầu với thế chấp. Bạn có thể tóm tắt quan điểm của chúng tôi không?
A: Chênh lệch thế chấp của các cơ quan Hoa Kỳ rộng hơn chênh lệch của các công ty đầu tư, điều này hầu như không bao giờ xảy ra. Chúng tôi nắm giữ cốt lõi các khoản thế chấp của các cơ quan. Chúng tôi thấy có lý do chính đáng để đầu tư vào các chứng khoán này được chính phủ liên bang hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp và để nhận được lợi thế về lợi suất so với hầu hết các trái phiếu công ty đầu tư.
Ở những nơi khác trên thị trường thế chấp, chúng tôi tìm kiếm nguồn rủi ro thế chấp không được chính phủ bảo lãnh dày dạn kinh nghiệm. Ngay cả khi chúng tôi trải qua suy thoái, trong khi người đi vay sẽ cảm thấy căng thẳng, thì vốn chủ sở hữu hiện tại trong thị trường thế chấp của Hoa Kỳ đang ở mức cao nhất mọi thời đại, tạo ra một sự bảo vệ. Trong quý thứ hai và thứ ba của năm nay, chúng tôi đã sáng tạo tận dụng quy mô của Quỹ thu nhập để tạo ra hàng tỷ đô la rủi ro trong không gian này. Trong nhiều năm, chúng tôi đã thiết lập được nhiều mối quan hệ, chúng tôi là một trong những công ty lớn nhất và chúng tôi tận dụng quy mô của quỹ để thúc đẩy việc tìm nguồn. Chúng tôi tìm cách thực hiện điều đó dưới hình thức chứng khoán hóa hoặc bằng cách tìm nguồn cho vay mà sau đó chúng tôi chứng khoán hóa thành các công cụ tích hợp.
Một lĩnh vực liên quan cần đề cập đến là cho vay tiêu dùng, cả ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Khi một hộ gia đình có vốn chủ sở hữu đáng kể trong nhà của họ, chúng ta thường thoải mái đầu tư vào các khoản vay mua ô tô và vay sinh viên, v.v.
H: Ông có thể thảo luận về việc phân bổ tín dụng ngoài thế chấp không?
A: Mức độ phơi nhiễm chênh lệch của công ty chúng tôi đang ở gần mức thấp nhất so với mức mà chúng tôi đã từng có trong lịch sử. Không phải vì chúng tôi kỳ vọng một chu kỳ hạ cấp hoặc vỡ nợ lớn trong tương lai gần – cả yếu tố cơ bản và kỹ thuật đều hỗ trợ tín dụng. Thay vào đó, chúng tôi coi mức độ phơi nhiễm là rủi ro nhạy cảm hơn về mặt kinh tế hiện đang được định giá rất chặt chẽ. Chúng tôi đã giảm nhẹ mức độ phơi nhiễm đối với các vị thế tín dụng rủi ro hơn và chuyển sang phân khúc cấp độ đầu tư của cấu trúc vốn.
Ngoài ra, chúng tôi có quan điểm thận trọng hơn về các phân khúc lãi suất thả nổi của thị trường, chẳng hạn như các khoản vay ngân hàng được bảo đảm cấp cao và phần lớn tín dụng tư nhân. Trong nhiều năm, bối cảnh kinh tế rất tuyệt vời đối với các lĩnh vực này: Chúng ta chưa từng có một cuộc suy thoái lớn, kéo dài nào kể từ năm 2009. Tuy nhiên, chúng ta có thể đang ở một bước ngoặt quan trọng. Fed đã bắt đầu cắt giảm lãi suất và nếu chúng ta thấy một số điểm yếu về kinh tế, thì các nhà đầu tư vào các công cụ lãi suất thả nổi có thể phải đối mặt với tình trạng lợi suất giảm khi rủi ro vĩ mô gia tăng, không giống như tín dụng lãi suất cố định, trong đó nếu lợi suất thị trường giảm, thì giá trị của các công cụ sẽ tăng. Chúng tôi sẵn sàng tận dụng bất kỳ sự gián đoạn nào trong không gian đó.
Trong tín dụng doanh nghiệp, chúng tôi cũng đang xem xét các tình huống đặc biệt mà chúng tôi có thể tận dụng quy mô của mình trên thị trường để giành được vị thế kiểm soát đáng kể, tận dụng các cơ hội đặc thù khi chúng xuất hiện.
H: Các nhà đầu tư đã hỏi về quan điểm của chúng tôi về tín dụng công so với tín dụng tư nhân. Ông nghĩ thế nào về định giá trong các lĩnh vực đó?
A: Chúng tôi không thực sự tập trung vào điều đó trong Quỹ thu nhập, ngoài việc lưu ý rằng phần lớn sự tăng trưởng trong thị trường tín dụng tư nhân nằm trong các phân khúc lãi suất thả nổi của bộ cơ hội. Với lợi suất giảm xuống khi bất ổn kinh tế hoặc bất ổn địa chính trị gia tăng, rất có thể sẽ có sự thay đổi trong tư duy của các nhà đầu tư trong vài quý tới.
Và một lần nữa, chúng tôi sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội phát sinh từ sự thay đổi này trong tâm lý chung, đôi khi tìm kiếm và tìm nguồn cung ứng các cơ hội ít thanh khoản hơn rồi đóng gói chúng dưới dạng thanh khoản hơn. Đây không phải là điều chúng tôi tập trung quá nhiều, nhưng tôi sẽ nói thế này: Trong một thế giới có nhiều bất ổn sau bầu cử, vĩ mô và địa chính trị, thật tuyệt khi có thanh khoản.
H: Quỹ Thu nhập được định vị như thế nào ở các thị trường mới nổi? Và lập trường về tiền tệ là gì?
A: Chúng tôi tiếp tục áp dụng cách tiếp cận có mục tiêu đối với các thị trường mới nổi, với nhiều không gian để bổ sung nếu chúng tôi thấy cơ hội. Các thị trường mới nổi có xu hướng là những khu vực biến động hơn trong tập hợp cơ hội toàn cầu và hiện tại chênh lệch giá khá mỏng. Chúng tôi thấy định giá hợp lý ở một số khu vực nhất định; một số lợi suất địa phương có ý nghĩa như các vị thế đa dạng hóa nhỏ. Brazil, Mexico và Nam Phi là những ví dụ mà chúng tôi đã hoạt động ở quy mô nhỏ.
Chúng tôi có xu hướng có các rổ tiền tệ khiêm tốn, và ngày nay chúng tôi có nhiều định hướng giá trị tương đối hơn. Các hoạt động tiền tệ của chúng tôi trong năm nay đã tạo ra một số lợi nhuận gia tăng tích cực, nhưng nhìn chung, các rủi ro định hướng liên quan đến đồng đô la Mỹ tương đối nhỏ.
H: Khi lãi suất ngắn hạn tăng vào năm 2022, tiền gửi tiền mặt và quỹ thị trường tiền tệ tăng đáng kể. Bây giờ, mặc dù Fed đã bắt đầu cắt giảm lãi suất, tiền mặt dường như không được phân bổ lại nhanh chóng. Quan điểm của bạn về điều này là gì?
A: Lợi suất tiền mặt đã giảm và có khả năng sẽ tiếp tục giảm. Nhưng không rõ chúng sẽ giảm nhanh như thế nào. Tiền mặt đã hoạt động tốt gần đây, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi nhiều nhà đầu tư hiện đang nắm giữ tiền mặt quá lâu.
Điều quan trọng cần lưu ý là với lợi suất ban đầu cùng với triển vọng kinh tế và thị trường, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận hấp dẫn đã điều chỉnh theo lạm phát ngày nay trong thu nhập cố định. Các nhà đầu tư đang nắm giữ tiền mặt không khóa chặt lợi nhuận có khả năng rất hấp dẫn đó. Đề xuất của tôi dành cho các nhà đầu tư là hãy đánh giá tình hình của riêng bạn, xác định lượng thanh khoản tiền mặt thực tế mà bạn cần và cân nhắc kỹ lưỡng xem có nên tăng đường cong lợi suất để khóa chặt một số lợi suất danh nghĩa và thực tế hấp dẫn mà chúng ta chưa từng thấy trong gần hai thập kỷ hay không.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu

EU cần bao nhiêu đầu tư xanh?

Không có quá trình chuyển đổi xanh nếu không có đầu tư xanh. Thúc đẩy điều này sẽ là thách thức cốt lõi đối với Thỏa thuận Xanh của Châu Âu trong năm năm tới, tạo ra hoặc phá vỡ cơ hội của Liên minh Châu Âu trong việc đạt được các mục tiêu về khí hậu và tăng cường khả năng cạnh tranh và an ninh của mình.
Nhưng thực sự cần bao nhiêu đầu tư xanh để đạt được các mục tiêu khí hậu của EU? Để đánh giá điều này, cần có thông tin chất lượng tốt ở cấp quốc gia. Nhưng bất chấp Thỏa thuận Xanh của Châu Âu và nhiều sáng kiến ​​mà nó đã thúc đẩy, điều này vẫn còn thiếu sót và không nhất quán một cách đáng ngạc nhiên. Tốt nhất là một số kế hoạch năng lượng và khí hậu quốc gia (NECP) của các nước EU đưa ra ước tính chung về số tiền đầu tư cần thiết để đạt được mục tiêu năm 2030, mà không nêu rõ cách tính toán các ước tính đó, khiến không thể đánh giá độ tin cậy của chúng, so sánh chúng theo cách nhất quán hoặc theo dõi tiến độ hướng tới quá trình khử cacbon (ECA, 2023).
Trong trường hợp không có thông tin chính thức đáng tin cậy của quốc gia, nhu cầu đầu tư xanh của châu Âu có thể được hiểu rõ nhất bằng cách xem xét các ước tính trước của Ủy ban châu Âu đối với toàn bộ EU, trong các đánh giá tác động làm cơ sở cho các mục tiêu khí hậu năm 2030 và đề xuất năm 2040 (Ủy ban châu Âu, 2020, 2024).
Theo Ủy ban, từ năm 2011 đến năm 2020, tổng đầu tư vào nguồn cung cấp năng lượng (tức là nhà máy điện và lưới điện), nhu cầu năng lượng (tức là tòa nhà, công nghiệp, nông nghiệp) và giao thông (tức là ô tô, xe tải, phương tiện giao thông công cộng) trung bình đạt 5,8 phần trăm GDP. Để đạt được mục tiêu khí hậu EU 2030 sẽ cần thêm các khoản đầu tư hàng năm khoảng hai phần trăm GDP từ năm 2021 đến năm 2030, một mức phải được duy trì trong hai thập kỷ để đạt mức phát thải ròng bằng không (Bảng 1).Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu_1
Những ước tính này về cơ bản phù hợp với những phát hiện của Pisani-Ferry và Mahfouz (2023) đối với Pháp và với các ước tính toàn cầu từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA, 2023b), Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA, 2023) và Bloomberg New Energy Finance (BNEF, 2024). Chúng cũng phù hợp với các ước tính về nhu cầu đầu tư xanh bổ sung trong giai đoạn 2025-2030 trong báo cáo Draghi (2024) về năng lực cạnh tranh của Châu Âu, bản thân chúng dựa trên các tính toán của Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Cuối cùng, Bizien et al (2024) đã xác nhận rằng khoảng cách giữa các khoản đầu tư khí hậu hiện tại của EU và các ước tính của Ủy ban về nhu cầu trong tương lai lên tới khoảng 2,5 phần trăm GDP vào năm 2022.

Nhu cầu đầu tư khí hậu của EU: điều chỉnh và cảnh báo

Các ước tính nhu cầu đầu tư xanh tiêu đề của Ủy ban châu Âu có sai sót. Chi phí đầu tư của một số hạng mục chính bị phóng đại. Các nhu cầu đầu tư quan trọng khác liên quan đến khí hậu không được đưa vào. Ngay cả sau khi điều chỉnh cho các khoản khai báo quá mức và thiếu hụt, các số liệu vẫn có thể không chắc chắn đáng kể.
Sự cường điệu
Các con số tiêu đề của Ủy ban cho thấy giao thông là hạng mục chi tiêu chính, nhưng 60 phần trăm nhu cầu đầu tư này sẽ phát sinh từ việc thay thế ô tô vốn sẽ diễn ra dù sao đi nữa (dựa trên tuổi thọ trung bình của ô tô là khoảng 10 năm; ACEA, 2023). Nếu điều này bị loại bỏ, Ủy ban dự kiến ​​các khoản đầu tư bổ sung vào giao thông phù hợp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 sẽ bị giới hạn: 0,5 phần trăm GDP hàng năm từ năm 2021 đến năm 2030. Thay vào đó, ngành điện và tòa nhà dự kiến ​​sẽ là những ngành chính đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn để đạt được các mục tiêu về khí hậu. Trong hai ngành này, nhu cầu đầu tư dự kiến ​​sẽ tăng gần gấp đôi so với GDP trong cùng kỳ.
Các số liệu tiêu đề của Ủy ban cũng cố gắng đưa yếu tố thay đổi hành vi vào. Điều này có thể có ý nghĩa quan trọng, vì các biện pháp hành vi tiếp theo (ví dụ như chuyển đổi phương thức nhanh chóng và mô hình di chuyển bền vững, bảo tồn năng lượng, tái chế) có thể giảm nhu cầu đầu tư xanh của EU khoảng tám phần trăm (Bảng 2).
Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu_2
Những lời nói khiêm tốn
Các con số của Ủy ban Châu Âu chỉ đề cập đến chi tiêu vốn (CAPEX) và không bao gồm chi phí tài chính. Điều này đáng được đề cập vì trong khi CAPEX đại diện cho khoản chi phí chính trong quá trình chuyển đổi xanh, chi phí tài trợ đầu tư sẽ rất đáng kể đối với các tác nhân bị hạn chế tiền mặt và tài chính công sẽ cần can thiệp bằng các công cụ giảm rủi ro để tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân.
Các con số của Ủy ban cũng chỉ xem xét khía cạnh triển khai của quá trình khử cacbon và không bao gồm khía cạnh sản xuất. Nghĩa là, những con số này không tính đến chi phí sản xuất công nghệ sạch cần thiết để đạt được các mục tiêu chính sách công nghiệp của EU, chẳng hạn như những gì được nêu trong Đạo luật Công nghiệp Net-Zero (NZIA, Quy định (EU) 2024/1735). Ủy ban ước tính rằng việc tăng cường năng lực sản xuất công nghệ sạch ở châu Âu để đáp ứng ít nhất 40 phần trăm nhu cầu triển khai hàng năm của EU vào năm 2030 sẽ cần thêm tổng đầu tư khoảng 100 tỷ euro trong giai đoạn 2024-2030. Con số này chiếm khoảng 0,1 phần trăm GDP.
Chúng tôi coi ước tính này là rất thận trọng, đặc biệt là vì NZIA chỉ tập trung vào một số công nghệ và chuỗi cung ứng trong nước hạn chế, và bỏ qua chi phí của các chương trình nâng cao kỹ năng và đảm bảo tiếp cận các nguyên liệu thô quan trọng mang tính chiến lược cơ bản. Ngoài ra, nhu cầu đầu tư xanh vào sản xuất có thể lớn hơn nhiều nếu an ninh kinh tế được cho là đòi hỏi phải đưa sản xuất trở lại mạnh mẽ.
Finally, the Commission’s estimates deal only with the mitigation side of climate action and do not include climate adaptation investment. This is a major gap, as the EU’s need for climate adaptation already is and will be substantial, even if mitigation proceeds on schedule. Estimates of adaptation investment involve considerable uncertainty. For the EU they are currently estimated to range between €35 billion and €500 billion annually, a huge range that reflects different underlying assumptions and methodological approaches (EIB, 2021a). It is urgent to narrow the range of plausible estimates and develop better assessment of the distribution of those investments over time and across countries.
Additional uncertainty
The above estimates are underpinned by a number of assumptions, including on the trajectory of the carbon price, timing of decarbonisation efforts, the role of innovation in slashing clean-tech costs and system substitutability. These of course could change. It should also be clear that the estimates are only for decarbonisation investments, and do not include the other environmental and circular economy parts of the European Green Deal. Nor do they include the investments required to mobilise all the necessary resources, such as reskilling/upskilling of workers from brown to green industries and measures to tackle the social implications of climate policy. This last point is particularly relevant, because there will be a great need from 2025-2030 to deal with the complex distributional implications of buildings and transport decarbonisation, from which emissions reductions have so far been relatively small. Avoiding political backlash may involve offering financial incentives to households in return for adopting costlier green technologies.
To summarise: because behavioural changes could be more significant than assumed, the European Commission’s headline investment estimates could be overestimating overall and private mitigation-related investment needs (section 2.1). However, total climate-related transition needs should also include adaptation investments, the costs of reskilling and the cost difference between investment in green tech and the investment in brown tech that would otherwise have happened. The size of these excluded items in very uncertain, mostly because of uncertainty surrounding adaptation needs. Consequently, the total investment need for the green transition up to 2030 is likely to exceed the Commission’s estimates by a wide margin. This is even more the case for the transition up to 2040.

Public investment needs to reach the EU 2030 climate goal

If achieving the EU climate goals requires a substantial increase in investment, who is going to pay? The European Commission does not provide specific figures for this, mentioning only that the private sector is expected to be the main source of investment in the electricity system and industry, while public funding is expected to play a substantial role in the buildings and transport sectors, and in supporting innovative clean-tech uptake in the energy system and the industrial sector.
EIB (2021b) and Darvas and Wolff (2022) estimated the public share of green investment to be about 25 percent. However, these exercises are characterised by high uncertainty. For instance, by providing estimates for each category of investment, Pisani-Ferry and Mahfouz (2023) estimated this share to be higher for France: 50 percent in an optimal scenario for the country, also because of France’s larger public sector and greater share of public buildings than other countries. This higher figure is in line with a granular analysis by Baccianti (2022) for the EU, the central scenario of which also points to a roughly 50 percent public share of green investment.
Based on these different exercises, we can assume the public share of additional green investments from 2025-2030 to range between 25 percent and 50 percent. Given that the annual additional investments to reach the EU 2030 climate target are estimated at two percent of GDP, the additional public effort to reach the EU 2030 climate target would thus range between 0.5 percent and one percent of GDP over 2025-2030.
Given limited public finances, it will be crucial to make all the necessary efforts to stay at the lower end of this range. In other words, the available resources should be focused on those areas where private finance alone cannot deliver (ie where clear market failures exist). This includes:
RD support and support for early adoption of innovative clean technologies. This is what allows the creation of economies of scale, leading to steep cost reductions, which in turn progressively reduce the need for public support as the ‘green premium’ thins out. This has happened with wind and solar energy. IRENA estimated that between 2010 and 2022, the average cost of generating electricity from solar PV fell by 89 percent – currently almost one-third cheaper than the cheapest fossil fuel globally – while the cost of generating electricity with onshore wind fell by 69 percent. This is why countries including Germany have been able to rethink their investment support for renewables, and why the share of public investment to meet EU climate targets in the power sector is estimated in the relatively low range of 15 percent to 20 percent (Baccianti, 2022).
Financing electricity and transport infrastructure, as well as renovation of public buildings. For example, public funding will need to pay for a significant share of investment in railway networks, public transport and district heating (Baccianti, 2022; OBR, 2021).
Provision of financial de-risking tools to lower the cost of capital for private investors in green projects. Many clean technologies are characterised by high CAPEX and low operating costs (OPEX). This is true for wind and solar generation, electric vehicles and buildings retrofitting. The cost of capital thus plays a key role in the green transition, providing a critical benchmark to assess the risk and return preferences of investors, and acting as a lever for financial flows to influence prices and choices in the real energy economy (IEA, 2021). Lowering the cost of capital to foster private investment can be done through instruments such as preferential loans and guarantees to both firms and households. For instance, zero-interest loans in France, granted under the éco-Prêt à Taux Zéro (éco-PTZ) programme boosted energy-renovation rates across the country thanks to high take-up among the middle class (Eryzhenskiy et al, 2022).
Provision of direct financial support and compensation to the most vulnerable to ensure a socially fair transition. For most vulnerable households, direct public support is needed to compensate for the higher energy costs linked to climate policy, and to ensure take-up of green alternatives. For example, the phase-in of an EU carbon price on household and road transport emissions will likely be regressive, disproportionally affecting vulnerable households that rely on fossil fuels for domestic heating and lack the resources needed to change their vehicles. Directing support to the most vulnerable would help reduce both emissions and energy poverty. For instance, prioritising grants for the worst-performing buildings, often occupied by vulnerable consumers, will yield climate benefits and benefits in terms of improved air quality, health, productivity, energy security and lower future government outlays to alleviate energy poverty (Vailles et al, 2023; Keliauskaite et al, 2024).
The upshot is that the EU has embarked on a transformational transition without mapping out in detail how much investment this transition will require, and without equipping itself with the capacity to monitor, either at EU-level or national level, the actual efforts and the remaining investment gap. Knowing the rough direction of travel is like crossing the Atlantic without a compass, and is not enough.

A perfect storm for 2025-2030

Even if governments can ensure the substitutability of public finance with private finance, achieving the EU’s 2030 climate goal will still require public investment during 2025-2030 of at least 0.5 percent of GDP. Delivering this will be tough for five main reasons.
The main source of EU grants for the green transition is running out
Since the launch of the European Green Deal in 2019, the EU has played an increasingly direct role in fostering green investment, including through carbon pricing and regulations, and also by offering financial incentives. Balancing prohibitions and incentives is crucial to ensure the political viability of the green transition and to avoid a dangerous ‘blame game’ with national capitals (Pisani-Ferry et al, 2023). Two major steps have been taken on the financing of the green transition. First, its was decided to set a 30 percent minimum green spending threshold in the EU budget (the multiannual financial framework, MFF), amounting to about €1 trillion for 2021-2027. Second, a 37 percent minimum green spending threshold was established for the main part of the NextGenerationEU post-pandemic instrument, the Recovery and Resilience Facility (RRF), which was endowed with financial firepower of €723 billion for 2021-2026, including €338 billion in grants.
The RRF is currently the largest source of EU grants for the green transition, especially for buildings and transport decarbonisation (Lenaerts and Tagliapietra, 2021). On top of the MFF, green grants from the RRF and other instruments – the Innovation Fund, the Modernisation Fund and the Just Transition Fund – amount to about €50 billion per year.
But the RRF ends in 2026. This will leave a major gap in EU funding for the green transition, which will decrease to slightly less than €20 billion per year. In other words, a gap of about €180 billion for the 2024 to 2030 period will open up (Pisani-Ferry et al, 2023). This is highly problematic. It will happen just as EU countries are required to deepen their decarbonisation efforts substantially, starting with difficult sectors such as buildings and transport. The risk of political pushback from national capitals will likely be serious as a result.
The reformed EU fiscal framework is not conducive to green investment
A reform of the EU’s fiscal framework – which implements the EU Treaty requirement for countries to keep their budget deficits within 3 percent of GDP, and their public debt within 60 percent of GDP – took effect in April 2024. The framework as updated imposes restrictions that could make the financing of new green investment at national level very difficult for countries with debts and deficits considered excessive. Furthermore, the reformed fiscal framework does not include a ‘green golden rule’, which would exclude any increase in net green public investment from the fiscal indicators used to measure compliance with the fiscal rules. Nor does it provide exemptions even for EU-endorsed national green investments (see Box 1). These constraints make public investment for decarbonisation harder to realise.
False narratives on climate policies are increasingly promoted
Even before the 2024 US presidential election, swings to populist nationalist parties in large countries including Germany and France suggested unease among voters about climate policy. These parties indeed often preach the false belief that decarbonisation is detrimental to competitiveness and security, when it is exactly the opposite. Green investment is fundamental for the EU to meet its pressing competitiveness and security objectives, even if complex trade-offs exist between these different societal objectives.
Being poorly endowed with domestic resources, Europe is highly dependent on fossil-fuel imports, as dramatically illustrated by the 2022-2023 energy crisis. This exposes the EU to global oil and gas market volatility, undermining competitiveness and threatening security. For Europe, the only structural solution is the green transition. The EU is endowed with abundant domestic renewable energy resources, which can be exploited in a cost-effective manner, as generating electricity with wind and solar energy is now cheaper than doing so with coal and gas (Ember, 2024).
It is important to note that these estimates exclude subsidies, tax credits and system integration costs (eg grid connection and flexibility solutions to cope with intermittent renewable energy sources). It should also be mentioned that deploying renewables rapidly will not only lower wholesale power prices, but also cut bills for households, even accounting for additional costs such as grid expansion (Ember, 2024). This is the result of the global roll-out of clean technologies and continuing cost reductions in this sector (Claeys et al, 2024). According to the IEA (2023a), EU electricity consumers saved €100 billion during the peak of the energy crisis in 2021-2023 thanks to additional electricity generation from newly installed solar PV and wind capacity.
While decarbonisation was a priority in its own right until 2022, it is now the only available way to structurally secure energy supplies and to lower energy costs for the European economy. However, it will take time to get there. Most modelling exercises, including the European Commission’s, expect renewables to really cut electricity prices only in the early 2030s (Gasparella et al, 2023). For this to happen, massive investments will be required for renewable generation build-up, electricity grid expansion and provisions of flexibility solutions, such as electricity storage.
The trade-offs between decarbonisation, competitiveness and security are increasingly difficult
Decarbonisation raises three main issues: the fiscal cost, impact on competitiveness and implications for economic security. All three objectives of fiscal sustainability, competitiveness and economic security are worth pursuing, but cannot be achieved simultaneously, at least over a five-to-15 year period. Policy must therefore confront trade-offs. For example, relying on Chinese green equipment may help contain the fiscal cost of the transition and be good for competitiveness, but at the cost of undermining economic security. Conversely, European sourcing may head off economic security risks, but is likely to increase the fiscal cost of the transition.
Moreover, the nature or the acuteness of the trade-offs depend on the instruments chosen to reach net zero. Carbon pricing (through taxation or the auctioning of emission permits) alleviates the budget constraint but raises issues of social acceptability. Regulation does not raise fiscal concerns, but by shifting the decarbonisation cost onto the business sector, it may negatively affect competitiveness. Subsidisation of green investment may be good for economic security and competitiveness, but entails a fiscal cost (which the US Inflation Reduction Act (IRA) suggests could be major). Trade-offs are therefore instrument-specific.
EU green investment needs, and the public share of them, depend on the industrial policy approach. A strong industrial reshoring strategy would, for instance, lead to higher costs for clean technologies and therefore to higher green-investment needs. On the contrary, a more balanced and innovation-driven industrial policy might foster clean-tech cost reductions and therefore reduce green-investment needs. As industrial competitiveness will be a major driver of the 2024-2029 EU cycle, this trade-off will have to be confronted by policymakers at both EU and national levels.
In summary, Europe is currently not on track to reach its climate targets. It is at a juncture where political resistance to decarbonisation is mounting and where budgetary means to buy off consent are becoming scarce, at both EU level (because the main source of financing is drying up) and national level (because the fiscal rules leave little room for green investment). Moreover, the EU faces increasingly acute trade-offs between fiscal sustainability, competitiveness and economic security.
The return of President Trump further exacerbates the problem
The return of President Trump is set to exacerbate competitiveness and economic security challenges. His expected dismantling of US climate and environmental policies will fuel the narrative of populist nationalist parties in Europe, while his agenda is set to worsen Europe’s decarbonisation, competitiveness and security conundrum. As more public spending is likely to be needed in the defence sector, less public resources might be available for the green transition.
Confronting this challenge, it must be clear that Europe’s own economic interest is to push ahead with the green transition, for at least three reasons. First, global decarbonisation is vital for the EU in seeking to limit increasingly expensive climate damage in the future. Second, it will help the EU enhance its economic competitiveness and economic security. Third, it represents a clean-tech export opportunity for Europe. The EU must stick with its plan even as difficult trade-offs get tougher, and try to turn this situation into an opportunity to attract those clean investments that might now not materialise in the US, at least over the next four years.
It is important to stress that Trump’s fossil-fuel agenda is in the selfish interest of the US but it has no content for the EU, which is not endowed with fossil-fuel resources. Trump will aim to make the US not just ‘energy independent’, but ‘energy dominant’. He has pledged to halve natural gas and electricity prices within a year, largely through increased natural gas production. If this happens, it would widen the EU-US energy price gap, further undermining EU industrial competitiveness. As previously illustrated, the only way for Europe to provide a structural solution to this problem is to accelerate green investments. Trump’s return should thus be taken as a substantial boost to the implementation of the EU’s clean investment agenda.

Six proposals to make the necessary climate investments happen

To reach the EU’s 2030 climate target, the European Commission should put forward a new transformation programme, with both a private and a public strand. For the private strand, policy should aim at ensuring the credibility of the climate-policy strategy, and at creating the framework conditions for a full mobilisation of savings. For the public strand, the aim should to maximise the firepower of limited fiscal resources.
The business strand: ensure credibility and the full mobilisation of savings
Proposal 1: Ensure the credibility of the EU climate-policy framework and overall policy consistency
Credible carbon pricing signals and credible climate and environmental regulations drive expectations and underpin the green investment decisions of households and firms. Effective implementation of this toolkit can reduce the overall fiscal cost of the green transition.
The European Green Deal must thus be implemented fully, avoiding the temptation to water down its provisions because of competitiveness concerns. Reopening and weakening laws agreed after years of negotiations would do nothing to support the competitiveness of European industry and would only risk postponing the green investment decisions of families and businesses by undermining confidence in the reliability of Europe’s green trajectory.
An element that should not be neglected is taxation. Current European taxation systems still provide generous fossil-fuel subsidies and it is urgent to rethink them. After previous failed attempts, the now more than two-decades old EU Energy Taxation Directive (Council Directive 2003/96/EC) must be revised to align European taxation systems with EU climate policy, and to incentivise clean-tech uptake.
Proposal 2: Unleash green private investments through a capital markets union that works, an effective sustainable finance framework and a stronger European Investment Bank
As the private sector will have to account for most green investment, the capability to adequately leverage private investments will ultimately make or break the European Green Deal. The EU can take two important actions on this: i) deliver an effective capital markets union (CMU); ii) deliver an effective sustainable finance framework and iii) increase the firepower of the European Investment Bank (EIB).
A CMU that works
The cost of accessing finance is an important factor in determining whether households and firms can undertake capital-intensive green investments. The EU financial system is highly bank-dominated and fragmented along national lines, making it ill-suited for enabling the massive investments needed for the green transition through the provision of private capital. As a consequence, as noted by Letta (2024), the EU’s share of global capital-market activities – including equity issuance, total market capitalisation and corporate bond issuance – does not align proportionately with its GDP. Economic analysis suggests that this situation makes the EU more prone to crises and more likely to grow at a slower rate (Sapir et al, 2018).
Twin projects have been undertaken to move from fragmented national financial systems to a single European financial system that can finance projects at a European scale: the banking union (since 2012) and the capital markets union (since 2014). Although integrating and deepening capital markets has been a long-standing EU goal, actual progress on the CMU has been very limited. Giving substance to this project is now urgent to spur the private investments needed for the green transition. As suggested by Merler and Véron (2024), the European Commission should advance the CMU primarily by focusing on the integration of capital-markets supervision at EU level, as that is the area with the most immediate potential for progress.
Reform should also streamline the jumble of market infrastructures, asset management and auditing frameworks that currently prevent the efficient pan-European allocation of European savings to European projects, including those needed for the green transition. After years of procrastination, it is time to move and create a direct connection between the funding of the green transition and the development of the CMU.
Deliver an effective sustainable finance framework
The EU has been a first mover in sustainable finance. However, as pointed out by Merler (2024), the EU’s legal framework on sustainable finance suffers from three flaws:
Its centrepiece – the Taxonomy Regulation (Regulation (EU) 2020/852), which defines what counts as sustainable – is hampered by conceptual and usability shortcomings and as a result has not gained traction as the reference framework among corporates and investors for issuance or investment.
The second pillar – the EU Sustainable Finance Disclosure Regulation (Regulation (EU) 2019/2088) – suffers from a structural weakness: its key concept of ‘sustainable investment’ is not clearly defined.
Lastly, the EU lacks a coherent framework for transition finance, which is currently not properly defined in EU legislation.
These flaws risk limiting the effectiveness of EU regulation in leveraging financial markets to meet climate goals. As suggested by Merler and Véron (2024), the EU should take three actions to address this problem: i) better define ‘sustainable investment’ in the disclosure regulation, and ‘transition finance’ in the EU legal framework; ii) develop a standard for sustainability-linked bonds and other types of transition-finance instruments; iii) review how environmental, social and governance (ESG) ratings are regulated to make them more impactful.
Increase the firepower of the EIB
The EIB has played an important role in fostering clean investments under the auspices of the so-called Juncker Plan (now renamed InvestEU), a 2015 EU initiative to boost investment. EIB guarantees should amount to €33.7 billion to support about €370 billion in private investments by 2027. But more can and should be done to increase the role of the EIB in fostering investment across the EU, and also to increase its risk profile.
An important but still modest step has been taken by the EIB Board of Governors, which in 2024 proposed to change the statutory limit on its gearing ratio (ie how much it can lend in relation to its own resources), raising it from 250 percent to 290 percent. With a total balance sheet close to €600 billion, the EIB has played an increasingly significant role in the financing of the green transition, in accordance with its 2019 decision to become ‘the EU’s climate bank’, and to devote more than 50 percent of its investments to projects supporting climate action and environmental sustainability.
The EIB Board of Governors in June 2024 confirmed the financing of the green transition as the bank’s first priority, envisaging an increase in its lending to interconnectors and grids, energy efficiency, energy storage and renewables, and clean-tech manufacturing projects (EIB, 2024a). Financing activity of up to €95 billion is foreseen for 2024-2027, with well above half of investments going to the green transition. This compares to financing activity of €84 billion in 2023, of which more than half is already focused on the green transition (EIB, 2024b).
This is a good step but a modest one, given the scale of investment the EU needs in the coming years. The EIB should be more ambitious on the level of its financial activity. The EU should continue to provide the EIB with sufficient mandates and guarantees from the MFF, as these are essential to maintain the EIB’s current funding levels and to deploy more high-risk impact finance – similarly to national promotional banks (eg Germany’s KfW, France’s Groupe Caisse des Dépôts, Italy’s Cassa Depositi e Prestiti and Spain’s Instituto de Credito Oficial), which are underwritten by national guarantees.
An additional step to form up the EIB’s role in fostering private green investment was proposed by Letta (2024): the launch of a European Green Guarantee (EGG). This would entail the European Commission and EIB developing jointly an EU-wide scheme of guarantees to support bank lending to green investment projects and companies, with the EIB evaluating specific proposals from commercial banks and/or national financial institutions, and awarding the guarantee that would enable them to provide the necessary funding to companies. Based on a resource multiplier of 12 (like the original Juncker Plan), €25 billion to €30 billion in guarantees would trigger €300 billion to €350 billion in green investment. Under this scheme, European banks would be able to play a greater role in funding green companies, as the EGG would neutralise the so-called ‘green transition risk’, which prices the inherent risk of lending to green companies. The EGG would thus allow the EIB to reinforce significantly its catalytic role in private green investment.
The public strand: maximising the firepower of limited fiscal resources
Proposal 3: Turn NECPs into national green-investment strategies and attach conditions to the disbursement of EU funds
The national energy and climate plans (NECPs) of EU countries remain bureaucratic exercises without substantial impact on the formulation and implementation of national energy policies (Pisani-Ferry et al, 2023). NECPs must be turned into real national green-investment strategies, providing a point of reference for investors, stakeholders and citizens in making investment decisions. Governments should be obliged to set out in their NECPs a detailed, bottom-up analysis of their green investment needs, and an implementation roadmap with clear milestones or key performance indicators (KPIs).
The disbursement of EU green funds should be made conditional on the efficient achievement of these KPIs. This would be in line with the approach of linking the future EU budget with national reforms and investments, put forward by Ursula von der Leyen ahead of the European elections. As part of this, EU funds should be better focused on European green public goods with a high level of additionality (eg electricity interconnections) and measures that tackle the distributional impacts of climate policy.
Much more coordinated development of renewable energy and electricity-grid investment across Europe would yield substantial ‘techno-economic’ benefits, based on the design and operation of several European national electricity systems jointly, rather than individually. These benefits will increase massively with the development of renewables because of the harnessing of regional advantages, reducing the need for expensive back-up capacity and enhancing resilience to shocks (Zachmann et al, 2024).
Proposal 4: Revise the EU fiscal framework to introduce a ‘fiscally responsible public investment rule’
The reform of the EU fiscal framework has not left adequate room for green public investment. The framework should be revised by exempting well-specified public investment in decarbonisation, approved by the Council of the EU, from the application of minimum adjustments required under the EDP and the associated safeguards.
The problem with public investment in decarbonisation is that many of these investments are unprofitable at the current carbon price, taking into account the prevailing discount rate (for households) or the cost of capital (for businesses and local governments). Belle-Larant et al (2024) estimated that in France, only one-third of green investments in the transport and building sectors are profitable at the current carbon-price level. This implies that they won’t happen without public support.
Governments should thus play an important role here. But the new EU fiscal rules prevent countries that are subject to the EDP from sustaining clean investments. The framework should be amended so that economically-sound public investment that is expected to result in measurable reductions in emissions can happen. As a rule, this exemption should be conditional on: (a) the allocation of the future savings from reductions in fossil-fuel consumption to the reduction of public deficits and (b) adequate monitoring of implementation.
Proposal 5: Put the EU budget at the service of the green transformation
Increasing the minimum green spending threshold in the EU Multiannual Financial Framework (MFF) from 20 percent in 2014-2020 to 30 percent in 2021-2027 was an important step, consistent with the EU’s tougher climate goals. However, no interim assessment has been performed on compliance with the threshold and effectiveness of the spending. This should be done, taking into account that the European Court of Auditors found that the reported green spending in the MFF from 2014-2020 was not always relevant to climate action and that climate investment reporting was overstated (ECA, 2022).
In the context of the approaching phase-out of the Recovery and Resilience Facility, maintaining the current green spending threshold in the 2028-2034 MFF should be seen as a bare minimum for the EU. New strategic priorities, including security and defence, should be met in parallel – and not at the expense – of the green transition. The EU budget should also be more focused on European green public goods and measures aimed at leveraging national actions to tackle the distributional impacts of climate policy. As we have noted, the disbursement of the EU green budget should be made conditional on the achievement of KPIs.
Commission President von der Leyen is right to propose the creation of a new European Competitiveness Fund to invest in clean-tech manufacturing, AI, space and biotech technologies (von der Leyen, 2024). EU countries should not kill this proposal, as was done with the European Sovereignty Fund, and should instead consider different funding options, including new EU joint borrowing as suggested by Draghi (2024). The European Competitiveness Fund should accompany the implementation of a truly European industrial policy, and could become the main EU industrial policy investment vehicle in the context of which other tools, such as the EU Innovation Fund, could be framed while maintaining their operational autonomy. That is, the European Competitiveness Fund should be a one-stop-shop able to ensure the availability and accessibility of EU funds for clean-tech manufacturing.
Availability and accessibility are essential to maximise the impact of public money. Without such a vehicle at EU level, public incentives to spur private investment in clean tech and other technologies would predominantly come from national state aid, which would create risks of single-market fragmentation. The new Competitiveness Fund should:
Focus on supporting the development and scaling-up of pan-European public-private eco-systems, for instance topping-up national support for Important Projects of Common European Interest (IPCEIs);
Support the whole innovation cycle in an integrated manner, from disruptive innovation to deployment at scale;
Prioritise areas in which market, network and transition failures are most likely and government selection failures least likely, ensuring additionality and leveraging of other (member state) public and private funding (Tagliapietra et al, 2023).
Proposal 6: Maximise the use of ETS revenues
As the EU carbon price has increased significantly in recent years, so too have the revenues accruing to governments from auctioning off emission permits – rising from around €5 billion in 2017 to €38.8 billion in 2022. Of the total auction revenues generated in 2022, €30 billion went directly to EU countries, while the rest went into the EU Innovation Fund (€3.2 billion) and the Modernisation Fund (€3.4 billion) (EEA, 2023). However, while between 2013 and 2022 national governments only spent around three quarters of the total revenues they received on climate-related activities, the ETS rules now oblige them to spend all their revenues for green purposes.
In May 2023, EU countries agreed to introduce a second emissions trading scheme (ETS2). This will put a price on emissions from direct fuel combustion, including gas and oil boilers in private homes, and fuel combustion in road transport. Taking effect in 2027, ETS2 will require upstream fossil-fuel suppliers to surrender carbon certificates equivalent to the emissions generated by consumers of their fuels. The auctioning of ETS2 allowances will also generate substantial revenues of about €50 billion annually at a carbon price of €45/tonne (in 2020 prices) – the level of the cap that will be in place during the first three years of operation of ETS2. A maximum of €65 billion from the 2026-2032 revenues will be allocated to the Social Climate Fund (SCF), which is intended to support vulnerable households, micro-enterprises and transport users who face higher costs.
To access the SCF, EU countries must develop by June 2025 social climate plans that outline how they will use these funds to support vulnerable communities. In addition, countries must contribute at least another 25 percent of the costs of their social climate plans, increasing SCF resources to at least €87 billion (Cludius et al, 2023). The remaining ETS2 revenues will be managed by national governments; EU rules require these revenues to be used to deploy low-emission solutions in transport and heating, or to mitigate social impacts.
Cautiously assuming an ETS carbon price of €75 in 2030, and an ETS2 carbon price of €45, total revenues would amount to €65 billion in that year, of which €50 billion would accrue to EU countries. If carbon prices rise by 2030 to €130 and €100 on the ETS and ETS2 markets respectively, total revenues would be €134 billion in that year, of which around €100 billion would accrue to member countries. Being in the order of €50 billion to €100 billion in 2030, ETS revenues accruing to member states would thus be significant, and should be used to maximum benefit for the transition. The EU should closely monitor member state policies to ensure the money is well spent.

Conclusion

Để đạt được các mục tiêu về khí hậu, EU sẽ cần thêm các khoản đầu tư hàng năm khoảng hai phần trăm GDP trong giai đoạn 2025-2030, tương đương với chi tiêu cho RD của EU vào năm 2022 – ước tính là 2,2 phần trăm GDP (Eurostat, 2024). Những nhu cầu đầu tư này là đáng kể, nhưng có thể quản lý được.
Việc tìm ra các khoản tiền cũng cấp bách và cần thiết. Với Thỏa thuận Xanh của Châu Âu, EU đã định vị mình là người đi đầu toàn cầu trong chính sách khí hậu. Với nền kinh tế chính trị của hành động khí hậu toàn cầu và khả năng Hoa Kỳ rút khỏi Thỏa thuận Paris, sự thành công của Thỏa thuận Xanh của Châu Âu là rất quan trọng để quá trình phi cacbon hóa toàn cầu có cơ hội. Điều này quan trọng hơn bao giờ hết, vì tác động của biến đổi khí hậu trên toàn thế giới đang ngày càng trở nên rõ ràng và tốn kém.
Theo quan điểm toàn cầu này, cần nhớ rằng chi phí cho hành động ứng phó với biến đổi khí hậu thấp hơn nhiều so với chi phí cho việc không hành động, đặc biệt là đối với châu Âu, lục địa nóng lên nhanh nhất. Ví dụ, lũ lụt nghiêm trọng ở Slovenia vào năm 2023 đã gây ra thiệt hại ước tính khoảng 16 phần trăm GDP quốc gia (IMF, 2024). Những sự kiện như vậy gây ra những tác động nghiêm trọng, trực tiếp đến các khu định cư, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và sức khỏe con người. Chúng cũng dẫn đến những tác động kinh tế rộng hơn ở các khu vực bị ảnh hưởng và những thách thức tài chính lớn ở cấp quốc gia.
Như chúng tôi đã trình bày, phần chia sẻ công khai của các khoản đầu tư bổ sung cần thiết để EU đạt được mục tiêu khí hậu năm 2030 của mình phải nằm trong khoảng từ 0,5 phần trăm đến một phần trăm GDP trong giai đoạn 2025-2030. Các ràng buộc về tài chính không được cản trở việc huy động các nguồn lực này. Nợ công cho các khoản đầu tư như vậy phải được coi là ‘khoản nợ tốt’, được biện minh đầy đủ bằng nhu cầu tài trợ một lần cho quá trình chuyển đổi đặc biệt và tạm thời sẽ mang lại lợi ích to lớn cho các thế hệ tương lai. Cũng cần nhấn mạnh rằng chi tiêu công cho việc giảm thiểu khí hậu hiện nay sẽ làm giảm nhu cầu chi tiêu công cho việc thích ứng với khí hậu trong tương lai có khả năng cao hơn nhiều. Một khuôn khổ đầu tư xanh có trách nhiệm theo hướng mà chúng tôi đề xuất sẽ giúp thuyết phục thị trường rằng khoản nợ xanh này có thể và phải được tài trợ.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Tiến ra toàn cầu: Trái phiếu ngắn hạn có vị thế tốt cho sự phân kỳ kinh tế

Trưởng phòng Trái phiếu ngắn hạn toàn cầu Daniel Siluk tin rằng việc kéo dài chu kỳ kinh tế tại Hoa Kỳ và tăng trưởng đáng ngờ ở những nơi khác tạo cơ hội cho các nhà đầu tư trái phiếu nắm bắt lợi suất hấp dẫn và bảo toàn vốn bằng cách đa dạng hóa trên toàn cầu.
Khi đánh giá triển vọng trái phiếu toàn cầu vào năm 2025, các nhà đầu tư phải xem xét mối liên hệ không thể tách rời giữa môi trường vĩ mô và chính sách đang thay đổi. Tại Hoa Kỳ, thậm chí trước cuộc bầu cử tháng 11, thị trường đã hiệu chỉnh kỳ vọng về chu kỳ nới lỏng của Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Sự kết hợp giữa thị trường lao động phục hồi và lạm phát giảm có lẽ không nhanh như mong đợi đã làm giảm tính cấp thiết của việc cắt giảm lãi suất khi chu kỳ kinh tế kéo dài đã được định giá.
Theo nhiều khía cạnh, việc bầu cựu Tổng thống Donald Trump làm tăng khả năng tăng trưởng kinh tế bền vững, nhưng cũng mang đến những bất ổn mới mà các nhà đầu tư trái phiếu không thể bỏ qua. Trong khi các sáng kiến ​​thúc đẩy tăng trưởng như bãi bỏ quy định và cải cách thuế có thể thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng, thuế quan và rào cản thương mại ít nhất cũng có thể gây lạm phát và – tệ nhất – có khả năng gây cản trở tăng trưởng toàn cầu nếu các biện pháp này được đáp lại.
Lãi suất đã được chú ý. Đường cong lợi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ đã tăng trên tất cả các kỳ hạn. Lợi suất kỳ hạn ngắn hơn phản ánh quỹ đạo cắt giảm lãi suất nhẹ nhàng hơn và lợi suất kỳ hạn dài hơn đã tăng khi các nhà đầu tư tính đến biến động lớn hơn, tăng trưởng tiềm năng cao hơn và khả năng cuộc chiến kiềm chế lạm phát hoàn toàn vẫn chưa kết thúc.
Đối mặt với những cơn gió ngược dữ dội, các khu vực khác – ví dụ như phần lớn châu Âu – có thể phải thận trọng hơn trong việc nới lỏng chính sách. Các nhà đầu tư sẽ có trách nhiệm đào sâu vào chi tiết để xác định khu vực, ngành và chứng khoán nào sẽ là bên hưởng lợi ròng từ các chính sách của chính quyền mới và khu vực nào có thể phải đối mặt với những cơn gió ngược mới.Tiến ra toàn cầu: Trái phiếu ngắn hạn có vị thế tốt cho sự phân kỳ kinh tế_1
Theo quan điểm đầu tư, triển vọng kinh tế và chính sách khác nhau tạo ra cả cơ hội và rủi ro cho các nhà đầu tư trái phiếu. Trên khắp các khu vực pháp lý, cuộc chiến chống lạm phát đã đưa lợi suất lên mức có thể cung cấp cho các nhà đầu tư các luồng thu nhập hấp dẫn.
Tuy nhiên, triển vọng về lãi suất đang thay đổi. Với việc châu Âu đang phải đối mặt với sự tăng trưởng chậm chạp, lợi suất trái phiếu có thể tiếp tục giảm xa hơn, thể hiện cơ hội tăng giá vốn dọc theo đường cong chủ quyền. Tại Hoa Kỳ, bất kỳ sáng kiến ​​thúc đẩy tăng trưởng hoặc rào cản thương mại nào cũng có thể làm thay đổi tốc độ giảm của lạm phát. Điều này có thể dẫn đến sự biến động bổ sung đối với trái phiếu kho bạc kỳ hạn trung bình đến dài hạn.
Khi các khu vực khác nhau có lộ trình kinh tế và chính sách riêng, các nhà đầu tư có tầm nhìn toàn cầu có cơ hội tăng cường đa dạng hóa trong phân bổ thu nhập cố định bằng cách kết hợp phát hành với lợi suất và chứng khoán hấp dẫn ở những khu vực có lãi suất có thể giảm.Tiến ra toàn cầu: Trái phiếu ngắn hạn có vị thế tốt cho sự phân kỳ kinh tế_2
Người ta cũng phải xem xét những gì đã được định giá vào thị trường. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, lợi suất danh nghĩa của trái phiếu kỳ hạn 10 năm đã tăng tới 80 điểm cơ bản (bps) kể từ giữa tháng 9, với kỳ vọng lạm phát tăng trong thập kỷ tới chiếm một phần đáng kể trong mức tăng này.
Chúng tôi tin rằng nên áp dụng một cách tiếp cận toàn cầu tương tự khi tìm kiếm cơ hội trong các khoản tín dụng doanh nghiệp. Triển vọng kinh tế khác biệt có tác động đến hồ sơ tín dụng của các công ty phát hành. Và với định giá tăng cao trên toàn bộ loại tài sản, các nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm các khu vực mà điều kiện kinh tế ổn định – hoặc cải thiện – sẽ củng cố khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của công ty phát hành. Ngược lại, nơi tăng trưởng mong manh hơn, định giá cao hơn và phát hành theo chu kỳ hơn thì tốt nhất nên tránh.
Hơn nữa, định giá ở một số khu vực có vẻ thuận lợi hơn những khu vực khác, thường là đối với cùng một xếp hạng tín dụng – hoặc thậm chí là một đơn vị phát hành cụ thể. Với rủi ro tiền tệ biến động được phòng ngừa, các nhà đầu tư toàn cầu có thể tối đa hóa tiềm năng lợi nhuận vượt trội với ít hoặc không có rủi ro gia tăng.Tiến ra toàn cầu: Trái phiếu ngắn hạn có vị thế tốt cho sự phân kỳ kinh tế_3
Một cách để điều hướng môi trường kinh tế vẫn còn bất ổn là tập trung vào việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp có kỳ hạn ngắn hơn. Lợi suất cao hơn so với phần lớn 15 năm qua đã dẫn đến tiềm năng tạo ra lợi nhuận hấp dẫn do mức giảm mạnh hơn của các chứng khoán này khi chúng gần đến hạn. Trong các khung thời gian ngắn hơn này, các nhà đầu tư có xu hướng có tầm nhìn tốt hơn về khả năng trả nợ của bên phát hành. Cơ sở lý luận cho việc tập trung vào giai đoạn đầu được củng cố bởi mức phí bảo hiểm kỳ hạn vẫn còn thấp, nghĩa là các nhà đầu tư có khả năng tự phơi bày mình trước nhiều biến động hơn đáng kể để chỉ có lợi nhuận cao hơn một chút.

Các vấn đề chính sách

Chúng tôi mong đợi có được cái nhìn sâu sắc hơn về các ưu tiên kinh tế của Tổng thống đắc cử Trump trong những tháng đầu nhiệm kỳ của ông. Cách tiếp cận của nhóm của ông đối với thương mại, thâm hụt và các khía cạnh kinh tế trong chương trình nghị sự an ninh quốc gia của ông sẽ có tác động trên toàn cầu. Các sáng kiến ​​thúc đẩy tăng trưởng có thể sẽ duy trì lợi suất trái phiếu kho bạc ở mức cao so với các đối thủ toàn cầu. Sức mạnh của đồng đô la đi kèm sẽ gây tổn hại đến các loại tiền tệ khác và cũng chuyển một phần lớn hơn đầu tư toàn cầu về phía Hoa Kỳ. Điều này có thể làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế của các khu vực như Châu Âu. Và ở mức độ mà chương trình nghị sự này sẽ thay đổi quỹ đạo tăng trưởng dự kiến, nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của Fed và các ngân hàng trung ương khác.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Tuyên bố chính sách tài chính của chính quyền địa phương: Phản ứng ban đầu

Chính phủ đã công bố tuyên bố chính sách nêu rõ kế hoạch tài trợ cho chính quyền địa phương tại Anh vào năm tới và cung cấp thêm thông tin chi tiết về các kế hoạch cải cách dài hạn.
Giám đốc phụ trách tài chính của IFS và người đứng đầu bộ phận tài chính chính quyền địa phương và phân cấp, David Phillips cho biết:
“Thông báo về nguồn tài trợ của hội đồng là tuyên bố rõ ràng về ý định của chính phủ mới.
Nếu tất cả các hội đồng Anh tăng thuế hội đồng của họ lên mức tối đa được phép (trung bình, chỉ dưới 5%), thì tổng nguồn tài trợ cốt lõi của họ sẽ tăng 5,6%, hoặc 3,2% theo giá trị thực sau khi tính đến dự báo lạm phát toàn nền kinh tế. Và thêm vào thu nhập mới từ các nhà sản xuất bao bì, thì mức tăng sẽ gần 5% theo giá trị thực.
Nhưng việc tăng quỹ sẽ chủ yếu nhắm vào các hội đồng nghèo, thường là thành thị. Các khoản tài trợ nhắm vào các hội đồng nông thôn sẽ bị bãi bỏ để tài trợ một phần cho khoản tài trợ mới dựa trên tình trạng nghèo đói. Chính phủ đang nỗ lực chỉ ra rằng các hội đồng phục vụ khu vực nông thôn vẫn sẽ thấy được sự gia tăng trong tổng nguồn tài trợ của họ, nhưng con số này sẽ nhỏ hơn đáng kể so với các khu vực nghèo đói hơn.
Chính phủ đã mô tả những thay đổi này như một bước đệm cho những cải cách cơ bản hơn từ năm 2026-27 trở đi. Cam kết cải cách hệ thống tài trợ của hội đồng với các đánh giá cập nhật về nhu cầu chi tiêu và năng lực tăng doanh thu tại địa phương được hoan nghênh – và đã quá hạn từ lâu. Các khoản phân bổ tài trợ hiện tại dựa trên một loạt các quyết định và dữ liệu tùy ý từ những năm 1990. Hệ thống hiện tại đơn giản là không phù hợp với mục đích và chính phủ có quyền cải cách nó.
Những thay đổi được thực hiện cho năm tới cho thấy những thay đổi dài hạn này cũng sẽ tập trung vào việc phân phối lại nguồn tài trợ cho những khu vực nghèo đói hơn, để bù đắp cho những khoản cắt giảm mà họ phải gánh chịu trong những năm 2010. Liệu điều đó có công bằng hay không sẽ tùy thuộc vào quan điểm của người xem. Tuy nhiên, tình trạng hiện tại không thể tiếp tục vô thời hạn, và một cuộc tham vấn sắp tới sẽ cho phép các hội đồng và các bên liên quan khác trên khắp nước Anh nói lên tiếng nói của họ về những gì một hệ thống tài trợ được cải cách nên ưu tiên.”

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)