Lưu trữ cho từ khóa: “Tâm lý bi quan” với đường xu hướng nằm ngoài tầm với

Bán buôn, tháng 6 năm 2024

Xe cơ giới và phụ tùng, phụ kiện xe cơ giới dẫn đầu doanh số giảm trong tháng 6

Trong tháng thứ hai liên tiếp vào tháng 6, doanh số bán hàng trong phân ngành xe cơ giới và phụ tùng và phụ kiện xe cơ giới (-2,6% xuống 14,2 tỷ đô la) đã thúc đẩy sự sụt giảm trong thương mại bán buôn. Cũng như tháng 5, doanh số bán hàng đã giảm trong cả ba nhóm ngành vào tháng 6 với mức giảm lớn nhất đến từ các nhà bán buôn xe cơ giới (-2,7% xuống 11,5 tỷ đô la).
Doanh số bán hàng trong phân ngành máy móc, thiết bị và vật tư cũng giảm trong tháng thứ hai liên tiếp, giảm 0,5% xuống còn 17,9 tỷ đô la vào tháng 6, trong khi nhóm máy móc và thiết bị nông trại, bãi cỏ và vườn ghi nhận mức giảm lớn (-12,7% xuống còn 2,5 tỷ đô la).

Doanh số bán hàng giảm ở tám tỉnh, dẫn đầu là Ontario

Vào tháng 6, tám tỉnh báo cáo doanh số bán buôn thấp hơn, dẫn đầu là Ontario (-1,1%) và Alberta (-1,0%). Ngược lại, British Columbia (+2,2%) ghi nhận mức tăng lớn nhất.
Doanh số bán buôn tại Ontario giảm 1,1% xuống còn 43,0 tỷ đô la vào tháng 6, ghi nhận mức giảm hàng tháng thứ năm kể từ đầu năm. Doanh số giảm ở năm trong số bảy phân ngành, chủ yếu do vật liệu xây dựng và vật tư (-5,7% xuống còn 4,7 tỷ đô la) và các phân ngành ô tô và phụ tùng và phụ kiện ô tô (-1,8% xuống còn 10,2 tỷ đô la).
Doanh số bán hàng tại Alberta giảm 1,0% xuống còn 9,1 tỷ đô la vào tháng 6, là tháng giảm thứ hai liên tiếp, chủ yếu là do doanh số bán hàng thấp hơn ở các phân ngành khác (-9,9% xuống còn 994,9 triệu đô la) và máy móc, thiết bị và vật tư (-2,4% xuống còn 3,1 tỷ đô la).
Mặt khác, tại British Columbia, doanh số bán buôn tăng 2,2% lên 7,8 tỷ đô la vào tháng 6, nhờ doanh số cao hơn ở các phân ngành khác (+12,8% lên 1,2 tỷ đô la) và vật liệu và vật tư xây dựng (+5,7% lên 1,9 tỷ đô la).

Hàng tồn kho giảm vào tháng 6

Hàng tồn kho bán buôn giảm 0,1% xuống còn 126,8 tỷ đô la vào tháng 6, sau mức tăng 1,2% vào tháng 5 và vẫn ở mức cao.
Vào tháng 6, bốn trong số bảy phân ngành ghi nhận mức giảm, dẫn đầu là phân ngành máy móc, thiết bị và vật tư (-0,7% xuống 38,8 tỷ đô la), vì ba trong bốn nhóm ngành của phân ngành này ghi nhận mức giảm trong hàng tồn kho. Sự sụt giảm cũng được báo cáo trong phân ngành hàng cá nhân và gia dụng (-0,5% xuống 20,3 tỷ đô la), trong đó ba trong số năm nhóm ngành của phân ngành này đã giảm.
Mức tăng hàng tồn kho trong các phân ngành vật liệu và vật tư xây dựng (+0,8% lên 22,2 tỷ đô la) và các phân ngành khác (+1,1% lên 15,1 tỷ đô la) đã hạn chế mức giảm trong tháng 6.
Tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh số tăng từ 1,53 vào tháng 5 lên 1,54 vào tháng 6. Tỷ lệ này là thước đo thời gian (tính bằng tháng) cần thiết để bán hết hàng tồn kho nếu doanh số vẫn duy trì ở mức hiện tại.

Doanh số bán buôn tăng trong quý 2 năm 2024

Trong quý 2, doanh số bán buôn tăng 0,7% lên 249,3 tỷ đô la, chủ yếu là do doanh số bán hàng cao hơn vào tháng 4.
Dẫn đầu mức tăng doanh số trong quý 2 là phân khúc hàng hóa cá nhân và gia dụng, tăng 2,3% lên 37,0 tỷ đô la, tiếp theo là phân khúc máy móc, thiết bị và vật tư, tăng 1,5% lên 54,0 tỷ đô la.
Lợi nhuận trong quý 2 bị ảnh hưởng bởi doanh số bán hàng trong phân ngành vật liệu và vật tư xây dựng giảm 2,4% xuống còn 34,6 tỷ đô la.
Doanh số bán hàng trong quý 2 năm 2024 tăng 1,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Khảo sát sản xuất hàng tháng, tháng 6 năm 2024

Doanh số sản xuất giảm 2,1% xuống còn 69,6 tỷ đô la vào tháng 6, do sự sụt giảm ở 17 trong số 21 phân ngành, dẫn đầu là các phân ngành thiết bị vận tải (-2,9%), sản phẩm hóa chất (-5,8%) và kim loại cơ bản (-2,7%). Trên cơ sở hàng quý, tổng doanh số giảm 0,3% trong quý 2 năm 2024, là quý giảm thứ ba liên tiếp. Sự sụt giảm trong quý 2 là do doanh số thấp hơn trong phân ngành sản phẩm dầu mỏ và than (-4,0%) cũng như nhóm ngành công nghiệp ô tô (-3,8%). Trên cơ sở hàng năm, tổng doanh số giảm 1,8% vào tháng 6.
Tổng doanh số tính theo đô la cố định giảm 2,1% vào tháng 6, trong khi chỉ số giá sản phẩm công nghiệp không đổi.

Doanh số bán phụ tùng ô tô dẫn đến sự sụt giảm trong thiết bị vận tải

Doanh số bán hàng trong tiểu ngành thiết bị vận tải giảm 2,9% xuống còn 11,0 tỷ đô la vào tháng 6, sau hai tháng tăng liên tiếp. Sự sụt giảm diễn ra trên diện rộng, vì sáu trong số bảy nhóm ngành công nghiệp công bố doanh số bán hàng thấp hơn, dẫn đầu là phụ tùng ô tô (-5,6%) và sản phẩm và phụ tùng hàng không vũ trụ (-2,9%). Việc tái cơ cấu tại một số nhà máy lắp ráp ô tô ở Hoa Kỳ đã tác động đến hoạt động sản xuất phụ tùng ô tô chính ở Canada và là một phần nguyên nhân khiến doanh số bán hàng thấp hơn trong nhóm ngành này. Xuất khẩu ô tô và phụ tùng giảm 3,9% vào tháng 6.
Trong nhóm ngành sản phẩm và linh kiện hàng không vũ trụ, sản lượng giảm 2,9% xuống còn 2,6 tỷ đô la vào tháng 6, sau khi đạt mức cao nhất được ghi nhận vào tháng 5. Mặc dù giảm trong tháng, sản lượng sản phẩm và linh kiện hàng không vũ trụ đã tăng 1,8% trong quý 2.
Doanh số bán các sản phẩm hóa chất giảm 5,8% xuống còn 5,2 tỷ đô la vào tháng 6, là mức giảm hàng tháng thứ hai liên tiếp và là mức thấp nhất được ghi nhận kể từ tháng 6 năm 2021. Sự sụt giảm này là do doanh số bán thuốc trừ sâu, phân bón và các hóa chất nông nghiệp khác thấp hơn. Doanh số bán phân bón thường giảm vào tháng 6, sau mùa trồng trọt vào tháng 5. Giá phân bón, thuốc trừ sâu và các sản phẩm hóa chất nông nghiệp khác giảm 0,1% vào tháng 6 năm 2024. Trên cơ sở hàng năm, tổng doanh số bán các sản phẩm hóa chất đã giảm 4,6% vào tháng 6, trong khi giảm 1,1% trong quý 2.
Sau ba tháng tăng liên tiếp, doanh số bán kim loại cơ bản đã giảm 2,7% xuống còn 5,5 tỷ đô la vào tháng 6, chủ yếu là do doanh số bán sản xuất và chế biến kim loại màu (trừ nhôm) thấp hơn. Doanh số bán kim loại cơ bản tính theo đô la cố định đã giảm 2,9% vào tháng 6. Một số nhà máy kim loại màu của Canada đã đóng cửa một số lần góp phần vào doanh số bán hàng thấp hơn được quan sát thấy vào tháng 6. Giá của một số kim loại màu đã giảm vào tháng 6, bao gồm niken chưa gia công và hợp kim niken (-10,3%) cũng như đồng chưa gia công và hợp kim đồng (-4,5%). Mặc dù có sự sụt giảm hàng tháng vào tháng 6, doanh số bán kim loại cơ bản theo quý (+4,7%) đã đánh dấu mức tăng lớn nhất trong số 21 phân ngành trong quý 2.

Doanh số bán hàng giảm ở tám tỉnh vào tháng 6, dẫn đầu là Quebec

Doanh số sản xuất giảm ở tám tỉnh vào tháng 6. Mức giảm lớn nhất được ghi nhận ở Quebec, Ontario và Alberta, trong khi mức tăng lớn nhất là ở New Brunswick.
Tại Quebec, doanh số giảm 3,2% xuống còn 17,8 tỷ đô la vào tháng 6, chủ yếu là do doanh số bán kim loại cơ bản thấp hơn (-7,4%) và các sản phẩm kim loại chế tạo (-9,2%). Sự suy giảm trong phân ngành kim loại cơ bản là nguyên nhân chính dẫn đến mức giảm 5,7% trong tổng doanh số bán hàng tại Montréal. Mặc dù có sự sụt giảm theo tháng, tổng doanh số bán hàng tại Quebec đã tăng 3,8% so với tháng 6 năm 2023 và tăng 1,6% trong quý 2 năm 2024.
Sau hai tháng tăng liên tiếp, doanh số bán hàng tại Ontario giảm 1,7% xuống còn 30,7 tỷ đô la vào tháng 6, do doanh số bán phụ tùng ô tô và máy móc giảm (-5,9%) và giảm (-5,5%). Doanh số bán hàng tại Ontario giảm 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng 6, trong khi giảm 1,2% so với quý 2.
Tại Alberta, doanh số giảm 2,5% xuống còn 8,4 tỷ đô la vào tháng 6, chủ yếu là do doanh số bán hàng thấp hơn trong các phân ngành sản phẩm hóa chất (-7,3%) và máy móc (-11,6%). Doanh số bán hàng sản phẩm hóa chất thấp hơn cũng góp phần làm giảm 0,5% tổng doanh số bán hàng tại Edmonton. Bất chấp sự sụt giảm hàng tháng, doanh số bán hàng tại Alberta đã tăng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng 6 và tăng 0,5% trong quý thứ hai.

Tổng lượng hàng tồn kho tăng lên

Tổng mức tồn kho tăng nhẹ 0,1% lên 121,1 tỷ đô la vào tháng 6, do tồn kho cao hơn ở 13 trong số 21 phân ngành, dẫn đầu là hóa chất (+6,6%) và sản phẩm gỗ (+1,6%). Mức tăng được bù đắp một phần bởi tồn kho thấp hơn trong các phân ngành thiết bị vận tải (-2,6%) và sản xuất hỗn hợp (-9,9%). Tồn kho thành phẩm cao hơn (+2,3%) được bù đắp một phần bởi tồn kho nguyên liệu thô thấp hơn (-0,9%) và hàng hóa đang chế biến (-1,0%).
Tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh số tăng từ 1,70 vào tháng 5 lên 1,74 vào tháng 6. Tỷ lệ này đo lường thời gian, tính bằng tháng, cần thiết để bán hết hàng tồn kho nếu doanh số vẫn duy trì ở mức hiện tại.

Đơn hàng chưa hoàn thành giảm

Tổng số đơn hàng chưa hoàn thành giảm 0,8% xuống còn 105,1 tỷ đô la vào tháng 6, chủ yếu là do số đơn hàng chưa hoàn thành thấp hơn trong nhóm ngành sản phẩm và phụ tùng hàng không vũ trụ (-1,4%).

Tỷ lệ sử dụng công suất tăng

Tỷ lệ sử dụng công suất (không điều chỉnh theo mùa) cho toàn bộ ngành sản xuất tăng từ 79,7% vào tháng 5 lên 80,2% vào tháng 6, chủ yếu là do tỷ lệ sử dụng công suất cao hơn trong các tiểu ngành dầu mỏ và sản phẩm than (+5,2 điểm phần trăm) và thiết bị vận tải (+4,1 điểm phần trăm). Sự gia tăng này được bù đắp một phần bởi tỷ lệ sử dụng công suất thấp hơn trong các tiểu ngành hóa chất (-3,4 điểm phần trăm) và kim loại cơ bản (-1,6 điểm phần trăm).

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Dự báo kinh tế của Hội đồng quản trị cho nền kinh tế Hoa Kỳ

Tăng trưởng GDP sẽ chậm lại, không giảm mạnh vào năm 2024

Nền kinh tế dự kiến sẽ mất đà trong nửa cuối năm 2024 do giá cả cao và lãi suất tăng làm giảm nhu cầu trong nước. Tăng trưởng GDP thực tế tăng bất ngờ 2,8 phần trăm theo quý tính theo năm trong quý 2 năm 2024 (từ 1,4 phần trăm trong quý 1 năm 2024), dẫn đầu là nhu cầu trong nước mạnh hơn và hàng tồn kho tăng đột biến. Nhưng có một số dấu hiệu suy yếu, đặc biệt là khi người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu cho dịch vụ, vốn là yếu tố đóng góp chính vào tăng trưởng GDP thực tế trong hai năm qua. Người tiêu dùng và doanh nghiệp có khả năng sẽ tiếp tục cắt giảm chi tiêu và đầu tư trong tương lai, cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại còn 0,6 phần trăm theo năm trong quý 3 năm 2024.

Hoạt động nhanh hơn có thể diễn ra vào năm 2025

Tăng trưởng GDP có thể sẽ ảm đạm trong quý 4 năm 2024, mở rộng với tốc độ chậm chạp khoảng 1 phần trăm theo năm. Tốc độ nhanh hơn một chút so với quý 3 phản ánh một số kỳ vọng rằng lãi suất thế chấp giảm có thể thúc đẩy mức tăng khiêm tốn trong doanh số bán nhà và đồng đô la Mỹ rẻ hơn hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn một chút. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ tăng nhẹ trên 2 phần trăm vào cuối năm 2025, phản ánh việc đạt được mục tiêu lạm phát 2 phần trăm của Fed và lãi suất thấp hơn.

Người tiêu dùng Hoa Kỳ mất hứng thú

Chi tiêu của người tiêu dùng Hoa Kỳ mạnh mẽ vào năm 2023 nhưng lại trái chiều trong nửa đầu năm 2024 khi tiền tiết kiệm trong đại dịch cạn kiệt, giá cả và lãi suất cao làm cạn kiệt ví tiền. Chi tiêu thực tế của người tiêu dùng cho hàng hóa bền đã sụp đổ trong quý 1 nhưng đã phục hồi trong quý 2, có thể là do chi phí cho các mặt hàng đắt tiền như ô tô và đồ nội thất bắt đầu giảm thực sự. Tuy nhiên, tăng trưởng chi tiêu cho hàng hóa đạt 0,2 phần trăm theo năm trong nửa đầu năm. Tiêu thụ hàng hóa không bền chỉ tăng 0,3 phần trăm theo năm trong nửa đầu năm. Trong khi đó, chi tiêu cho dịch vụ tăng mạnh trong quý 1 nhưng chậm lại một điểm phần trăm đầy đủ trong quý 2, trung bình khoảng 2,8 phần trăm trong nửa đầu năm. Điều quan trọng là người tiêu dùng vẫn đang chi tiêu, nhưng việc mua sắm của họ đang chuyển sang các hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn và cần thiết. Khảo sát niềm tin của người tiêu dùng của Hội đồng quản trị cho thấy người tiêu dùng vẫn tiếp tục lo ngại về tương lai, báo hiệu sự yếu kém hơn nữa trong chi tiêu trong thời gian còn lại của năm 2024. Chi tiêu của người tiêu dùng có thể tăng trở lại vào năm 2025 khi lãi suất và lạm phát thấp hơn sẽ mang lại sự nhẹ nhõm cho người tiêu dùng.

Nợ hộ gia đình là mối đe dọa đối với tiêu dùng và ngân hàng

Tăng trưởng chi tiêu tiêu dùng thực tế vẫn lơ lửng trên mức tăng trưởng thu nhập cá nhân khả dụng thực tế một chút, nghĩa là một số hộ gia đình tiếp tục tài trợ cho các giao dịch mua bằng nợ, vì tiền tiết kiệm dư thừa đã bốc hơi. Các khoản thanh toán tín dụng tiêu dùng và dịch vụ nợ vẫn đang tăng lên, kết hợp với chi phí sinh hoạt cao và lãi suất tăng cao, cũng có thể hạn chế chi tiêu cho các mặt hàng tùy ý. Các khoản vay mua ô tô và nợ thẻ tín dụng đang cao hơn mức trước đại dịch và các ngân hàng đang phải chịu tổn thất ngày càng tăng do nợ tiêu dùng chưa trả.

Sự bất ổn và lãi suất cao đang hạn chế đầu tư kinh doanh

Tăng trưởng đầu tư kinh doanh vẫn không đồng đều do chi phí vốn tăng cao và các doanh nghiệp lo lắng về nhu cầu tiêu dùng chậm lại, các cuộc bầu cử sắp tới và các mối quan ngại về địa chính trị. Đầu tư tăng trong quý 1 năm 2024, nhưng vẫn nghiêng về sở hữu trí tuệ và đầu tư trong quý 2 chủ yếu được thúc đẩy bởi khả năng tăng đột biến một lần trong thiết bị vận tải. Đo lường Niềm tin của CEO của Hội đồng quản trị trong quý 3 cho thấy hầu hết các CEO của các công ty lớn không dự đoán suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ nhưng vẫn chỉ lạc quan thận trọng. Các kế hoạch đầu tư trong cuộc khảo sát CEO cũng phần lớn không thay đổi: nếu cắt giảm được thực hiện, thì chúng sẽ xảy ra hoặc nếu chi tiêu là trong tương lai, thì nó sẽ xảy ra.

Nhiều điểm tối hơn điểm sáng trong triển vọng đầu tư kinh doanh

Các doanh nghiệp đang đầu tư vào sở hữu trí tuệ (ví dụ: chuyển đổi số, AI) và nhân tài, nhưng không phải vào thiết bị vốn và các công trình ngoài nhà máy. Các chính sách công nghiệp khuyến khích cải thiện cơ sở hạ tầng và đưa chuỗi cung ứng về nước đang thúc đẩy xây dựng cơ sở sản xuất và sửa chữa đường bộ, nhưng không đầu tư nhiều vào các công trình thương mại khác. Trong khi đó, sự sụp đổ của giá CRE, do thị trường văn phòng gặp khó khăn, có khả năng cũng đang gây áp lực lên đầu tư kinh doanh vào các công trình. Do đó, capex thiếu máu có thể sẽ tiếp tục trong giai đoạn còn lại của năm 2024. Tuy nhiên, khảo sát The Conference Board Measure of CEO Confidence cho thấy các CEO của các công ty lớn kỳ vọng rằng cả nền kinh tế và ngành của họ sẽ cải thiện trong sáu tháng tới. Tâm lý này, cùng với lãi suất thấp hơn có thể hỗ trợ tăng đầu tư vào cuối năm 2025.

Hy vọng về chân trời cho đầu tư nhà ở

Như dự kiến, đầu tư nhà ở đã giảm trong quý 2 năm 2024, nhưng có thể tăng trở lại trong giai đoạn còn lại của năm 2024. Mặc dù nhu cầu về nhà ở tăng, lãi suất cao, chi phí vật liệu tăng cao, tình trạng thiếu hụt lao động trong ngành xây dựng và giá nhà cao ngất ngưởng đang đè nặng lên đầu tư nhà ở. Tuy nhiên, sau khi Fed ra tín hiệu rằng việc cắt giảm lãi suất có thể bắt đầu sớm nhất là vào tháng 9, lãi suất thế chấp đã bắt đầu giảm. Giá nhà trên khắp cả nước đang tăng cao, nhưng lãi suất thế chấp thấp hơn có thể thu hút một số người mua và người bán quay trở lại thị trường và hỗ trợ xây dựng nhà ở nhiều hơn một chút. Sự phục hồi khiêm tốn này thậm chí có thể bắt đầu vào cuối quý 3 năm 2024.

Chi tiêu của chính phủ có thể còn nhiều chỗ để chạy

Chi tiêu của chính phủ là một yếu tố đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế năm 2023 do chi tiêu phi quốc phòng của liên bang liên quan đến cơ sở hạ tầng, RD, chip và luật chuẩn bị chuyển đổi năng lượng được thông qua vào năm 2021 và 2022. Đóng góp từ chi tiêu của chính phủ nhỏ hơn vào quý 1 năm 2024 nhưng đã phục hồi vào quý 2 năm 2024. Chúng tôi dự đoán rằng các khoản chi liên quan đến các chính sách của chính phủ này sẽ tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng GDP trong năm nay và năm sau, nhưng với cường độ giảm dần. Tuy nhiên, sự biến động chính trị liên quan đến ngân sách, nợ, thuế và chi tiêu có thể làm giảm chi tiêu của chính phủ trong tương lai và thậm chí có thể dẫn đến việc bãi bỏ các khía cạnh chính của luật đã thúc đẩy tăng trưởng GDP thực trong vài năm qua.

Đóng góp cho thương mại và hàng tồn kho vẫn là ẩn số

Xuất khẩu ròng là lực cản đáng kể đối với tăng trưởng GDP thực trong nửa đầu năm 2024, trong khi hàng tồn kho giảm trong quý 1 nhưng sau đó tăng đột biến trong quý 2. Mặc dù xuất khẩu là tích cực, nhưng nhập khẩu lại tăng quá mức. Đóng góp tiêu cực từ thương mại bên ngoài có thể giảm bớt trong tương lai vì đồng đô la Mỹ yếu hơn một chút có thể thúc đẩy các chuyến hàng ra nước ngoài và nhu cầu trong nước yếu hơn hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, cả thương mại và hàng tồn kho vẫn là những ẩn số liên quan đến đóng góp tương ứng của chúng vào GDP khi các công ty tiếp tục vật lộn để quản lý hàng tồn kho trong bối cảnh nhu cầu trong nước và quốc tế liên tục thay đổi.

Thị trường lao động đang suy giảm, không sụp đổ

Thị trường lao động đang hạ nhiệt, nhưng sau khi tăng trưởng quá mức cần thiết để khôi phục việc làm sau đại dịch. Bảng lương phi nông nghiệp đã chậm lại còn 114.000 vào tháng 7 sau khi tăng trung bình 168.000 trong quý 2, 267.000 trong quý 1 năm 2024 và 251.000 vào năm 2023. Tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng lên 4,3 phần trăm vào tháng 7. Tuy nhiên, cả chúng tôi và Fed đều đánh giá rằng thị trường lao động vẫn tương đối lành mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp khá thấp xét về mặt lịch sử và vì nhiều ngành đã thuê lại những công nhân đã nghỉ việc trong thời gian đại dịch, nên việc tăng lương không cần phải quá lớn là điều hợp lý. Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt lao động vẫn tiếp tục thúc đẩy việc tuyển dụng trong các ngành công nghiệp chính khi thế hệ Baby Boomers nghỉ hưu và các công việc ở tuyến đầu và công nhân chân tay vẫn khó tuyển dụng. Thị trường lao động có thể sẽ tiếp tục điều chỉnh, nhưng không sụp đổ vì các công ty lớn của Hoa Kỳ tiếp tục tích trữ công nhân và các công ty nhỏ cho biết họ có kế hoạch tiếp tục tuyển dụng. Trong khi những động thái này giúp nhiều người duy trì việc làm, tình trạng biến động thị trường lao động liên quan đến tình trạng thiếu hụt lao động vẫn tiếp tục khiến tiền lương và phúc lợi tăng cao – chi phí mà nhiều công ty đang chuyển sang người tiêu dùng.

Lạm phát trở lại đúng hướng nhưng không đúng mục tiêu

Lạm phát do nhu cầu giảm bớt

Lạm phát giá tiêu dùng đã tiếp tục hạ nhiệt vào quý 2 năm 2024 sau khi đình trệ vào quý 1 năm 2024. Dữ liệu ban đầu cho tháng 7 cho thấy sự chậm lại đã tiếp tục vào đầu quý 3. Tuy nhiên, lạm phát chỉ số giảm phát Chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) vẫn cao hơn mục tiêu 2 phần trăm của Fed. Lạm phát hàng hóa không phải là vấn đề: lạm phát hàng hóa không bền (ví dụ: thực phẩm, xăng dầu) tiếp tục tăng theo từng năm nhưng đang được bù đắp bằng giá hàng hóa bền như xe cơ giới, xe RV và đồ nội thất giảm. Do đó, hầu hết áp lực lạm phát đều đến từ giá dịch vụ. Lạm phát chi phí nhà ở chậm lại, phù hợp với việc giảm giá thuê nhà và giá nhà trong quá khứ khi lãi suất tăng và nhu cầu nhà ở giảm, đang giúp điều chỉnh lạm phát giá dịch vụ.

Lạm phát do cung cấp thúc đẩy Hợp tác ít hơn

Tuy nhiên, tiến trình quay trở lại mục tiêu lạm phát của Fed vẫn tiếp tục bị thách thức bởi các yếu tố về phía cung và những thay đổi về cấu trúc nằm ngoài tầm kiểm soát của Fed. Chi phí lao động tăng cao do tiền lương cứng nhắc trong bối cảnh thiếu hụt lao động, tiếp tục làm tăng giá các dịch vụ trực tiếp như nhà hàng và chăm sóc sức khỏe. Nhiều xe hơi công nghệ cao hơn, một số được trang bị AI, đang làm tăng chi phí bảo hiểm xe cơ giới. Các thảm họa thiên nhiên liên tục và tốn kém đang thúc đẩy các công ty bảo hiểm tăng phí bảo hiểm nhà ở. Chi phí dịch vụ tài chính nói chung đang tăng và chi phí bảo hiểm chăm sóc sức khỏe tiếp tục tăng vọt. Một số áp lực này đang bắt đầu lắng xuống. Tuy nhiên, xét đến sự giằng co giữa các yếu tố thúc đẩy cung và cầu của lạm phát, chúng tôi vẫn dự đoán lạm phát PCE sẽ ổn định ở mức 2 phần trăm vào giữa năm 2025.

Dự kiến việc cắt giảm lãi suất sẽ bắt đầu vào tháng 9

Với triển vọng này, Fed có thể sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 9 và tiếp tục cắt giảm trong mỗi cuộc họp cho đến quý 3 năm 2025. Nếu Fed giảm lãi suất 25 điểm cơ bản trong mỗi cuộc họp, lãi suất quỹ liên bang sẽ giảm 75 điểm cơ bản vào cuối năm 2024 và giảm thêm 150 điểm cơ bản nữa vào cuối năm 2025 xuống mức chỉ hơn 3 phần trăm. Quy mô của các hành động riêng lẻ và tốc độ của các hành động đó có thể thay đổi tùy thuộc vào việc nhận ra rủi ro tăng hoặc giảm đối với nền kinh tế. Lạm phát dai dẳng và dữ liệu GDP hoặc thị trường lao động mạnh hơn dự kiến có thể khiến Fed thận trọng hơn và thường xuyên tạm dừng để đánh giá tác động của các hành động của mình. Lạm phát lạnh hơn nhiều và sự yếu kém đáng kể trong tăng trưởng hoặc thị trường lao động có thể khiến Fed cắt giảm lãi suất với mức tăng lớn hơn trong mỗi cuộc họp.

Những va chạm tiềm tàng trên con đường của Fed

Bất kỳ áp lực chính trị nào nhằm cắt giảm lãi suất trước cuộc bầu cử sắp tới của Hoa Kỳ vào tháng 11 sẽ không ảnh hưởng đến các quyết định của Fed, xét đến tính độc lập và tập trung vào chính sách tiền tệ của Fed. Tuy nhiên, các sự kiện chính trị đe dọa nền kinh tế hoặc gây ra biến động cực độ trên thị trường tài chính, bao gồm bất ổn xã hội liên quan đến bầu cử, bế tắc ngân sách liên bang và/hoặc quốc hội không giải quyết được trần nợ vào đầu năm 2025, cũng có thể ảnh hưởng đến thời điểm và mức độ cắt giảm lãi suất trong tương lai. Fed có thể cắt giảm lãi suất một hoặc hai lần rồi tạm dừng để chờ đợi bất kỳ biến động nào qua đi. Thật vậy, việc hạ lãi suất chính sách tiền tệ có thể kéo dài và kết thúc ở mức lãi suất cao hơn mức trung bình trước đại dịch: lãi suất quỹ liên bang trung bình giữa cuộc Đại suy thoái 2008-2009 và đại dịch năm 2020 là khoảng 1,5 phần trăm theo giá trị danh nghĩa và -0,5 phần trăm theo giá trị thực.

Rủi ro hai mặt đối với triển vọng của Hoa Kỳ

Rủi ro đối với triển vọng của Hoa Kỳ vẫn còn hai mặt và có xu hướng giảm nhẹ

Rủi ro giảm giá bao gồm các mối quan ngại về địa chính trị có thể dẫn đến tình trạng giá lương thực hoặc năng lượng tăng đột biến, gián đoạn chuỗi cung ứng khoáng sản hoặc chất bán dẫn quan trọng và/hoặc chiến tranh thương mại. Chính sách tài khóa trong nước gây ra rủi ro từ sự bất ổn sau cuộc bầu cử, tình trạng trần nợ năm 2025 và Đạo luật cắt giảm thuế và việc làm hết hạn vào năm 2025. Liên quan đến việc hết hạn cắt giảm thuế, thuế cao hơn đối với cá nhân sẽ làm giảm mức tiêu dùng và ảnh hưởng tiêu cực đến các công ty phục vụ người tiêu dùng trong ngắn hạn. Việc kéo dài thời gian cắt giảm thuế hoặc biến chúng thành vĩnh viễn sẽ làm tăng thâm hụt và nợ của chính phủ liên bang trong dài hạn. Ngoài ra, nếu chi tiêu của người tiêu dùng chậm lại quá mạnh trong ngắn hạn, các công ty không bị thiếu hụt lao động có thể bắt đầu sa thải công nhân, điều này có thể đẩy Hoa Kỳ vào suy thoái.
Mặt tích cực là người tiêu dùng tiếp tục làm người quan sát ngạc nhiên với mức chi tiêu cao của họ. Mặc dù tiền tiết kiệm dư thừa và tích lũy nợ đã cạn kiệt, các hộ gia đình vẫn có thể duy trì mức tiêu dùng cao hơn dự kiến. Hoạt động nhà ở và đầu tư kinh doanh cũng có thể tăng đột biến khi Fed cắt giảm lãi suất. Chính phủ liên bang cũng có thể chi tiêu thêm để hỗ trợ các lĩnh vực tăng trưởng cao của nền kinh tế. Đầu tư kinh doanh và chi tiêu của chính phủ như vậy có thể thúc đẩy năng suất. Hơn nữa, những tiến bộ trong công nghệ, đặc biệt là việc áp dụng đầy đủ hơn các hình thức AI hiện tại và tương lai cũng có thể thúc đẩy năng suất.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)