Lưu trữ cho từ khóa: Nhu cầu đầu tư khí hậu của EU: điều chỉnh và cảnh báo

Đồng đô la Mỹ đang ở ngã ba đường: Giải mã chương trình nghị sự thương mại và tài chính của Trump

Đồng đô la Mỹ đang ở giữa cuộc tranh luận ngày càng gia tăng giữa các nhà đầu tư toàn cầu khi các chính sách kinh tế và thương mại của Tổng thống đắc cử Donald Trump trở thành tâm điểm. Câu hỏi chính vừa đơn giản vừa phức tạp: Trump muốn đồng đô la mạnh hơn hay yếu hơn? Các mục tiêu chính sách, lời lẽ hùng biện và chiến lược tài khóa của ông vẽ nên bức tranh về các mục tiêu xung đột, khiến thị trường có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời.

Lập luận cho đồng đô la yếu hơn

Chính sách thương mại bảo hộ của Trump nhằm mục đích giảm thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ bằng cách ngăn cản thương mại toàn cầu, một lập trường có thể làm suy yếu đồng đô la theo nhiều cách. Theo truyền thống, vai trò của đồng đô la như một loại tiền tệ dự trữ của thế giới đã được củng cố bởi vị trí trung tâm của nó trong thương mại toàn cầu. Một xu hướng bảo hộ có thể làm giảm nhu cầu quốc tế đối với đồng đô la, vì ít giao dịch hơn chảy qua thị trường Hoa Kỳ.
Đồng đô la yếu hơn cũng có thể hỗ trợ nỗ lực của Trump nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu của Mỹ. Đồng tiền mất giá khiến hàng hóa của Hoa Kỳ cạnh tranh hơn ở nước ngoài, phù hợp với quan điểm của Trump về việc xây dựng lại các ngành công nghiệp trong nước và tạo việc làm trong lĩnh vực sản xuất.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này đi kèm với những rủi ro đáng kể. Đồng đô la giảm giá sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu, thúc đẩy áp lực lạm phát. Với việc Hoa Kỳ đã gánh chịu thâm hụt tài chính đáng kể, đồng đô la yếu hơn có thể làm trầm trọng thêm chi phí vay và làm phức tạp thêm việc tài trợ nợ. Các nhà đầu tư có thể yêu cầu lợi nhuận cao hơn để bù đắp cho những rủi ro được nhận thấy, có khả năng tạo ra lực cản cho cả khu vực tư nhân và công cộng.

Lập luận cho một đồng đô la mạnh hơn

Mặt khác, đồng đô la mạnh hơn có thể phù hợp với sự phụ thuộc lớn của Hoa Kỳ vào vốn nước ngoài. Thâm hụt tài chính của quốc gia, đặc biệt là theo các chính sách chi tiêu dự kiến ​​của Trump, sẽ đòi hỏi dòng vốn chảy vào mạnh mẽ. Đồng đô la ổn định hoặc tăng giá sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm tài sản an toàn, lợi nhuận cao, đảm bảo tài trợ cho các nghĩa vụ của Hoa Kỳ.
Hơn nữa, đồng đô la mạnh có thể giúp kiềm chế lạm phát bằng cách kiểm soát giá nhập khẩu. Điều này đặc biệt quan trọng nếu các chính sách tài khóa của Trump kích thích hoạt động kinh tế đến mức quá nóng. Đồng đô la mạnh sẽ đóng vai trò là đối trọng, duy trì sức mua và ổn định thị trường tiêu dùng. Bạn có thể kiểm tra thêm về USD TẠI ĐÂY .

Mâu thuẫn và nhận thức thị trường

Mâu thuẫn cố hữu này giữa chủ nghĩa bảo hộ thương mại của Trump và khả năng mở rộng tài chính của ông khiến thị trường rơi vào trạng thái biến động. Một mặt, các chính sách của ông cho thấy sự mất giá có cấu trúc của đồng đô la theo thời gian. Hoạt động thương mại toàn cầu giảm, cùng với xu hướng hồi hương vốn tiềm tàng ở các khu vực khác, chẳng hạn như Châu Âu, có thể làm suy yếu vị thế của đồng tiền này.
Mặt khác, dòng vốn ngắn hạn đổ vào, được thúc đẩy bởi lãi suất cao hơn của Hoa Kỳ hoặc phí bảo hiểm tăng trưởng, có thể hỗ trợ tạm thời cho đồng đô la. Hiện tại, thị trường dường như coi đồng đô la được định giá quá cao so với các loại tiền tệ chính, một vị thế có thể khuếch đại độ nhạy cảm của nó đối với các bất ngờ về dữ liệu kinh tế.

Các chất xúc tác sắp tới cần chú ý

Các nhà đầu tư sẽ theo dõi chặt chẽ việc công bố dữ liệu thị trường lao động Hoa Kỳ, bao gồm cả việc làm JOLTS và các bài phát biểu quan trọng của các quan chức Cục Dự trữ Liên bang. Mặc dù những sự kiện này có thể thay đổi tâm lý ngắn hạn, nhưng câu chuyện lớn hơn có thể sẽ xoay quanh các diễn biến rộng hơn, bao gồm chiến lược tài khóa của Trump, các cuộc đàm phán thương mại quốc tế và chính sách của Cục Dự trữ Liên bang.
Ngoài ra, thị trường đang hướng đến năm 2025, khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và danh mục đầu tư có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc định hình quỹ đạo của đồng đô la. Hiện tại, sự tương tác giữa các mục tiêu chính sách của Trump và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế vĩ mô tiếp tục gây ra sự không chắc chắn.
Hướng đi của đồng đô la trong những tháng tới sẽ phụ thuộc vào cách các chính sách thương mại và tài chính của Trump hòa giải—hoặc không hòa giải—các mục tiêu xung đột của chúng. Một đồng đô la yếu hơn có thể thúc đẩy tạm thời xuất khẩu và sản lượng công nghiệp của Hoa Kỳ, nhưng phải trả giá bằng lạm phát và chi phí trả nợ cao hơn. Ngược lại, một đồng đô la mạnh hơn có thể ổn định lạm phát và thu hút vốn nước ngoài nhưng có thể làm suy yếu tham vọng thương mại rộng lớn hơn của Trump.
Cuối cùng, sự căng thẳng về chính sách này nhấn mạnh những thách thức trong việc cân bằng các ưu tiên kinh tế trong nước và quốc tế. Là đồng tiền được giao dịch nhiều nhất thế giới, đồng đô la vẫn là thước đo tâm lý kinh tế toàn cầu và con đường phía trước của nó có thể sẽ có những tác động sâu rộng vượt ra ngoài biên giới Hoa Kỳ.
Nội dung này có thể được viết bởi bên thứ ba. ACY không đưa ra bất kỳ tuyên bố hoặc bảo đảm nào và không chịu trách nhiệm về tính chính xác hoặc đầy đủ của thông tin được cung cấp, cũng như bất kỳ tổn thất nào phát sinh từ bất kỳ khoản đầu tư nào dựa trên khuyến nghị, dự báo hoặc thông tin khác do bất kỳ bên thứ ba nào cung cấp. Nội dung này chỉ là thông tin và không cấu thành lời khuyên về tài chính, đầu tư hoặc lời khuyên khác mà bạn có thể tin cậy.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Kích thích kinh tế của Trung Quốc sẽ bù đắp một phần thuế quan của Hoa Kỳ vào năm 2025

Goldman Sachs Research dự đoán nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng chậm hơn vào năm 2025, vì các nỗ lực kích thích kinh tế của chính phủ chỉ bù đắp một phần tác động của các mức thuế quan tiềm tàng từ Hoa Kỳ.
Tăng trưởng GDP thực tế dự kiến ​​sẽ giảm tốc xuống còn 4,5% vào năm tới từ mức 4,9% vào năm 2024. Dự báo của Goldman Sachs Research giả định mức thuế quan thực tế do chính quyền Trump sắp nhậm chức áp dụng đối với hàng hóa Trung Quốc sẽ tăng 20 điểm phần trăm, điều này sẽ ảnh hưởng đến GDP thực tế của Trung Quốc là 0,7 điểm phần trăm vào năm 2025. Dự báo cũng giả định rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc sẽ đưa ra các biện pháp kích thích mới để làm giảm tác động của thuế quan.
“Sự lựa chọn trước mắt các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc rất đơn giản: hoặc là cung cấp một liều bù đắp chính sách lớn hoặc chấp nhận mức tăng trưởng GDP thực tế thấp hơn đáng kể”, Nhà kinh tế trưởng Trung Quốc Hui Shan viết trong báo cáo của nhóm. “Chúng tôi hy vọng họ sẽ chọn phương án đầu tiên”.
Kích thích kinh tế của Trung Quốc sẽ bù đắp một phần thuế quan của Hoa Kỳ vào năm 2025_1
Ở những khía cạnh khác, trọng tâm của giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thay đổi: Các quan chức quyết tâm, trong trung hạn, sẽ đưa nền kinh tế hướng tới mô hình tăng trưởng tự lực và do công nghệ thúc đẩy. Theo Goldman Sachs Research, chi phí để làm như vậy — leo lên nấc thang để tạo ra tăng trưởng chất lượng cao hơn — là sự mở rộng kinh tế chậm hơn. Các nhà kinh tế của chúng tôi dự báo tăng trưởng GDP thực tế sẽ đạt trung bình 3,5% từ năm 2025 đến năm 2035, so với 9,0% trong giai đoạn 2000-2019.
“Nền kinh tế Trung Quốc phải đối mặt với những trở ngại tăng trưởng đáng kể vào năm 2024 và các nhà hoạch định chính sách cuối cùng đã bắt đầu nới lỏng mạnh mẽ hơn vào cuối tháng 9”, Shan viết. “Cách các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc sẽ chống chọi với gió để ổn định tiêu dùng trong nước và thị trường bất động sản, và để quản lý căng thẳng thương mại Mỹ-Trung mới, sẽ là chủ đề bao trùm của năm 2025”.
Trung Quốc sẽ hỗ trợ nền kinh tế như thế nào?
Theo truyền thống, chính phủ Trung Quốc đã tìm cách hỗ trợ nền kinh tế thông qua cơ sở hạ tầng và xây dựng bất động sản. Lần này, Goldman Sachs Research tin rằng các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc có thể sẽ phản ứng bằng cách cắt giảm đáng kể lãi suất chính sách và tăng thâm hụt tài chính.
Xuất khẩu mạnh mẽ là điểm sáng duy nhất của nền kinh tế Trung Quốc trong năm nay, đóng góp 70% vào mức tăng trưởng GDP thực tế dự kiến ​​là 4,9%, theo Goldman Sachs Research. Mặc dù các nhà xuất khẩu Trung Quốc có thể tiếp tục giành được thị phần ở các nước thị trường mới nổi, trong bối cảnh thuế quan của Hoa Kỳ tăng đáng kể, tốc độ tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu có khả năng sẽ giảm mạnh. Đóng góp vào tăng trưởng GDP thực tế từ xuất khẩu có thể giảm đáng kể vào năm tới.
Xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước ngoài Hoa Kỳ (ước tính chiếm hơn 85% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc) có khả năng sẽ tăng khiêm tốn vào năm 2025, một phần nhờ vào sức cạnh tranh mạnh về giá và khả năng mất giá tiền tệ. Goldman Sachs Research dự kiến ​​tổng khối lượng xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sẽ không đổi vào năm tới so với năm nay (so với mức tăng 13% vào năm 2024).
Triển vọng lạm phát ở Trung Quốc
Goldman Sachs Research’s inflation projections are notably below the consensus estimates of economists. Shan expects CPI and PPI inflation to be 0.8% and 0% next year, respectively, compared to Bloomberg’s consensus of 1.2% and 0.4%. “There are structural factors weighing on inflation, including the multi-year housing downturn and persistent industrial overcapacity,” Shan writes. “Restoring consumer confidence and strengthening labor markets and wage growth are likely to take time.”
Policymakers in September pledged a raft of measures to support everything from China’s property sector to its equity market amid slowing consumption. Household consumption contributed just 29% to headline GDP in the third quarter of 2024, down from 47% in the second quarter and 59% before the onset of the pandemic. Goldman Sachs Research expects growth in household consumption to stay flat at 5% in 2025.
“The weakness in domestic demand has finally struck the ‘policy put,’ and the current easing emphasizes local government debt resolution, household consumption, and equity market performance,” Shan writes.
Is China’s property market near the bottom?
Kích thích kinh tế của Trung Quốc sẽ bù đắp một phần thuế quan của Hoa Kỳ vào năm 2025_2
Still, China’s ongoing property downturn is likely to continue to be a significant drag. New home starts and government revenue from land sales plunged by 60-70% from their peak in 2020-21. New home sales and completions almost halved in the latest data.
Given the many structural challenges, our economists see “no quick fix” for the nationwide property sector and expect the downturn to be a multi-year drag on growth for the Chinese economy. Goldman Sachs Research projects that the property sector will likely weigh on China’s GDP growth by 2 percentage points in 2025 (versus -2.1 percentage points in 2024). The team expects the growth drag to narrow starting from 2026 but to linger until 2030.
“With incremental housing easing measures ahead, it is possible to see a stabilization of home prices in some large cities next year — but probably not nationwide,” Shan writes. “For many construction-related property activities, their multi-year downtrend appears inevitable.”
While our economists’ 4.5% forecast for GDP in 2025 is in line with consensus expectations, they note the range of possible outcomes is wide for next year. Higher-than-expected tariffs by the US administration is a key downside risk; US president-elect Donald Trump has threatened to raise them by as much as 60 percentage points, and revoking China’s Permanent Normal Trade Relations status would see the effective tariff rate climb by 40 percentage points. Regarding the upside risk, Chinese goods exports could prove more resilient than expected, which could cause growth to come in higher than forecast.
Bài viết này chỉ được cung cấp cho mục đích giáo dục. Thông tin có trong bài viết này không cấu thành khuyến nghị từ bất kỳ thực thể nào của Goldman Sachs cho người nhận và Goldman Sachs không cung cấp bất kỳ lời khuyên tài chính, kinh tế, pháp lý, đầu tư, kế toán hoặc thuế nào thông qua bài viết này hoặc cho người nhận. Goldman Sachs cũng như bất kỳ chi nhánh nào của Goldman Sachs đều không đưa ra bất kỳ tuyên bố hoặc bảo đảm nào, dù là rõ ràng hay ngụ ý, về tính chính xác hoặc đầy đủ của các tuyên bố hoặc bất kỳ thông tin nào có trong bài viết này và mọi trách nhiệm pháp lý do đó (bao gồm cả đối với tổn thất hoặc thiệt hại trực tiếp, gián tiếp hoặc do hậu quả) đều được từ chối rõ ràng.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Liệu thị trường tài chính có thể kết hợp giá trị của thiên nhiên không?

Năm 2024, Mạng lưới Dấu chân Toàn cầu ước tính “con người sử dụng nhiều tài nguyên sinh thái như thể chúng ta sống trên 1,7 Trái đất”. Việc sử dụng quá mức tài nguyên này làm nổi bật cách nền kinh tế toàn cầu đã phát triển với cái giá phải trả là sự suy thoái môi trường liên tục. Đánh giá Dasgupta năm 2021 – một báo cáo toàn diện về kinh tế học đa dạng sinh học – ước tính rằng, từ năm 1992 đến năm 2014, vốn con người trên đầu người, được định nghĩa là lao động, kỹ năng và kiến ​​thức, đã tăng khoảng 13% và tạo ra vốn trên đầu người như đường sá, tòa nhà và nhà máy tăng gấp đôi. Trong khi đó, vốn tự nhiên trên đầu người, được định nghĩa là “kho tài sản thiên nhiên tái tạo và không tái tạo mang lại dòng lợi ích cho con người”, đã giảm 40%.
Khi chúng ta đang vật lộn với những thách thức phát sinh từ biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học, nhu cầu kết hợp các cân nhắc về môi trường vào quá trình ra quyết định kinh tế ngày càng tăng.

Chúng ta phải đối mặt với những thách thức nào khi đưa giá trị của thiên nhiên vào các quyết định kinh tế?

Suy thoái môi trường phát sinh từ những gì các nhà kinh tế gọi là vấn đề bên ngoài: Sự thất bại của các cá nhân trực tiếp tham gia vào một giao dịch trong việc tính đến các chi phí gián tiếp mà xã hội phải gánh chịu. Một ví dụ về điều này là một chủ đất chặt phá rừng mà không xem xét đến vai trò của nó trong việc hấp thụ khí nhà kính. Ngoài ra, việc định lượng giá trị của không khí sạch hoặc các dòng sông không bị ô nhiễm bằng các số liệu kinh tế truyền thống là một thách thức khi không có thị trường chính thức. Do đó, loài người đã đối xử với các dịch vụ do thiên nhiên cung cấp (“dịch vụ hệ sinh thái”) – chẳng hạn như oxy từ cây cối, thụ phấn cho cây trồng bởi ong và giảm thiểu lũ lụt từ các vùng đất ngập nước – phần lớn như thể chúng là miễn phí, mà không xem xét đến sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên này do hành động của họ gây ra.
Giải quyết các tác động bên ngoài liên quan đến việc đưa chi phí xã hội vào giá hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế. Lý tưởng nhất là chúng ta sẽ ước tính và định giá lượng carbon thải ra trong quá trình sản xuất, mất đa dạng sinh học do ô nhiễm nước, cạn kiệt oxy do nạn phá rừng, v.v. Ý tưởng cơ bản là định giá rừng, hồ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác không chỉ vì những hàng hóa mà chúng có thể biến thành mà còn vì giá trị mà chúng mang lại cho xã hội khi chúng vẫn ở dạng tự nhiên ban đầu. Ví dụ, thực vật hấp thụ CO2 trong khí quyển và giải phóng oxy thông qua quá trình quang hợp. Vì vậy, về nguyên tắc, có thể tính giá phát thải CO2 bằng cách ước tính chi phí trồng cây để bù đắp chúng. Tuy nhiên, việc định giá các tác động bên ngoài môi trường khác phức tạp hơn. Việc định giá bằng tiền cho sự mất mát đa dạng sinh học – chẳng hạn như sự tuyệt chủng của các loài động vật do biến đổi khí hậu – đặc biệt khó khăn vì nó liên quan đến các yếu tố không dễ định lượng, như giá trị nội tại của các loài động vật khác nhau và tác động lâu dài đến hệ sinh thái.

Một số ví dụ về nỗ lực đưa thiên nhiên vào thị trường tài chính là gì?

Bất chấp những khó khăn trong việc định giá tiền tệ cho các tác động bên ngoài môi trường và dịch vụ hệ sinh thái, thị trường tài chính có thể cung cấp các công cụ và cơ chế để giải quyết những thách thức này bằng cách tính đến tác động môi trường của doanh nghiệp và chuyển hướng đầu tư vào các sáng kiến ​​bền vững. Bằng cách phát triển các công cụ tài chính công nhận giá trị của tài nguyên thiên nhiên, chúng ta có thể khuyến khích các công ty ưu tiên bảo tồn môi trường. Cách tiếp cận này có thể giúp định lượng giá trị của thiên nhiên và hướng các quỹ vào các dự án có tác động tích cực đến môi trường. Trong các phần sau, chúng tôi sẽ xem xét cách thị trường tài chính đang cố gắng kết hợp giá trị của thiên nhiên và đánh giá hiệu quả của những nỗ lực này.
Đầu tư bền vững
Các khoản đầu tư bền vững hướng đến mục tiêu tạo ra lợi nhuận tài chính trong khi thúc đẩy giá trị môi trường hoặc xã hội. Thường được gắn nhãn “ESG”—chỉ môi trường, xã hội và quản trị—các khoản đầu tư này bao gồm nhiều loại công cụ khác nhau. Chúng bao gồm từ trái phiếu xanh—chứng khoán nợ được phát hành để tài trợ cho các dự án có tác động tích cực đến môi trường—cho đến các quỹ giao dịch trao đổi tập trung vào ESG (ETF) lựa chọn cổ phiếu hoặc trái phiếu dựa trên các tiêu chí ESG.
Bất chấp phản ứng dữ dội gần đây, nhu cầu đầu tư ESG đã tăng lên trong những năm gần đây và dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, trong năm sau khi công bố xếp hạng bền vững của một công ty xếp hạng nổi tiếng vào năm 2016, các quỹ “bền vững cao” đã chứng kiến ​​dòng tiền ròng chảy vào là 24 tỷ đô la trong khi các quỹ “bền vững thấp” thay vào đó đã chứng kiến ​​dòng tiền ròng chảy ra là 12 tỷ đô la. Điều này xảy ra mặc dù thiếu bằng chứng cho thấy các quỹ bền vững cao hoạt động tốt hơn các quỹ bền vững thấp.
Tuy nhiên, vẫn còn những lo ngại đáng kể về hiệu quả và tính minh bạch của nhãn ESG. Một phân tích về các quỹ tương hỗ tự dán nhãn ESG tại Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng các quỹ này nắm giữ danh mục các công ty có “thành tích kém hơn về tuân thủ luật lao động và môi trường” so với các quỹ không phải ESG trong cùng một tổ chức tài chính từ năm 2010 đến năm 2018. Các tác giả phát hiện ra rằng, mặc dù các quỹ ESG nắm giữ danh mục các công ty có điểm ESG cao hơn, nhưng các điểm này có tương quan với số lượng tiết lộ tự nguyện liên quan đến ESG hơn là hồ sơ tuân thủ thực tế hoặc mức phát thải carbon.
Một nghiên cứu khác phân tích dữ liệu phát thải từ hơn 3.000 công ty từ năm 2002 đến năm 2020 cho thấy các chiến lược đầu tư bền vững liên quan đến việc thoái vốn khỏi các công ty “nâu” để chuyển sang các công ty “xanh” có thể phản tác dụng. Các tác giả phát hiện ra rằng khi các công ty “xanh” có chi phí vốn thấp hơn, lượng phát thải của họ không thay đổi nhiều, nhưng khi các công ty “nâu” có chi phí vốn cao hơn, lượng phát thải của họ tăng đáng kể. Điều này là do việc thoái vốn khỏi các công ty “nâu” làm tăng chi phí vốn của họ và buộc họ phải tiếp tục sử dụng các phương pháp sản xuất gây ô nhiễm cao hiện tại thay vì đầu tư vào các công nghệ xanh mới có thể giảm lượng phát thải.
Cuối cùng, một phân tích về các thỏa thuận tài chính đa dạng sinh học từ năm 2020 đến năm 2022 cho thấy khoảng 60% được tài trợ hoàn toàn bằng vốn tư nhân, trong khi 40% còn lại liên quan đến “tài chính hỗn hợp” – vốn tư nhân kết hợp với tài trợ công hoặc từ thiện. Nghiên cứu cũng tiết lộ rằng vốn tư nhân thuần túy có xu hướng tài trợ cho các thỏa thuận quy mô nhỏ hơn với kỳ vọng lợi nhuận tài chính cao hơn nhưng tác động đến đa dạng sinh học ít tham vọng hơn. Ngược lại, tài chính hỗn hợp được sử dụng cho các dự án quy mô lớn hơn với lợi nhuận thấp hơn nhưng tác động đến đa dạng sinh học tham vọng hơn. Các tác giả cho rằng tài chính hỗn hợp là một công cụ hữu ích để thu hút các nhà đầu tư tư nhân bằng cách giảm rủi ro của họ và thu hẹp khoảng cách lợi nhuận.
Tín dụng
Tín dụng môi trường là công cụ tài chính cho phép người mua hỗ trợ gián tiếp các hành động cụ thể về môi trường. Ví dụ, bằng cách mua tín dụng carbon, nhà đầu tư trả tiền cho một công ty khác để giảm lượng khí thải nhà kính (GHG) của công ty đó. So với các loại tín dụng mới nổi khác, thị trường tín dụng carbon đã được thiết lập tốt: Năm 2022, thị trường carbon tự nguyện có quy mô thị trường khoảng 2 tỷ đô la bao phủ 1,7 gigaton carbon và thị trường tuân thủ có quy mô thị trường khoảng 850 tỷ đô la bao phủ gần 20% lượng khí thải GHG toàn cầu vào năm 2021.
Các loại tín dụng liên quan đến thiên nhiên khác, chẳng hạn như tín dụng đa dạng sinh học, đã được đề xuất để tạo ra phần thưởng tài chính cho hoạt động bảo tồn. Theo mô hình này, một công ty lập kế hoạch cải thiện đa dạng sinh học và thực hiện kế hoạch đó thông qua hoạt động giám sát thường xuyên, do chính công ty hoặc bên thứ ba thực hiện. Tín dụng đa dạng sinh học được tạo ra khi hoạt động giám sát xác nhận rằng các mục tiêu đa dạng sinh học cụ thể đã đạt được. Sau đó, tín dụng có thể được bán, với doanh thu được chia cho chủ đất và bên phát triển tín dụng đa dạng sinh học. Một số công ty đã bắt đầu bán tín dụng đa dạng sinh học và Liên hợp quốc hiện đang tạo điều kiện cho một liên minh quốc tế tự nguyện về tín dụng đa dạng sinh học. EU cũng đang tìm hiểu về tín dụng đa dạng sinh học và tín dụng carbon liên quan đến đa dạng sinh học thông qua dự án Climate Biodiversity Nexus của mình.
Những thách thức mà các khoản tín dụng dựa trên thiên nhiên này phải đối mặt bao gồm đảm bảo rằng doanh thu từ các khoản tín dụng được sử dụng theo đúng mục tiêu dự kiến ​​và đo lường chính xác tác động đến môi trường.
Các công ty bảo tồn thiên nhiên
Một cách tiếp cận khác để nội tại hóa các yếu tố bên ngoài về môi trường trong thị trường tài chính là thành lập các công ty bảo tồn thiên nhiên. Mục đích chính của các công ty này là mua hoặc thuê đất và quản lý đất để tạo ra các dịch vụ hệ sinh thái. Chủ đất có thể tặng hoặc bán quyền bảo tồn, dẫn đến việc chủ đất mất một số quyền nhất định, chẳng hạn như quyền phát triển hoặc chia nhỏ đất. Có 221.256 quyền bảo tồn bao phủ khoảng 38 triệu mẫu Anh đất tại Hoa Kỳ. Mặc dù quyền bảo tồn có liên quan đến các lợi ích về thuế cho chủ đất, Sở Thuế vụ đã quan sát thấy tình trạng lạm dụng các lợi thế về thuế này.
Trong một số trường hợp, các công ty này được hình dung là sẽ được giao dịch công khai và niêm yết trên các sàn giao dịch, với ý tưởng rằng quá trình khám phá giá liên quan đến giao dịch sẽ phản ánh giá trị của việc bảo vệ tài sản thiên nhiên. Mô hình này đang được Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch xem xét khi Sở Giao dịch Chứng khoán New York đề xuất niêm yết “các công ty tài sản thiên nhiên” để giao dịch công khai. Mặc dù đề xuất đã bị rút lại vào tháng 1 năm 2024, tờ New York Times lưu ý rằng có những nguyên mẫu của mô hình này đang được tiến hành trên thị trường tư nhân.
Các công ty bảo tồn thiên nhiên hướng đến mục tiêu tạo ra lợi nhuận kinh tế cùng với các nỗ lực bảo tồn của họ. Những lợi nhuận này thường đạt được thông qua việc bán tín chỉ carbon hoặc các hoạt động kinh tế như nông nghiệp bền vững, cho thuê bất động sản, sản xuất năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái. Tiền thu được từ các hoạt động này có thể được sử dụng để trả các khoản vay được sử dụng để mua đất.
Việc tích hợp giá trị của thiên nhiên vào các công ty bảo tồn thiên nhiên là một thách thức vì một số lý do. Đầu tiên, các công thức định giá tài chính cơ bản ngụ ý rằng giá cổ phiếu của một công ty là giá trị chiết khấu của tất cả các dòng tiền trong tương lai mà các nhà đầu tư mong đợi công ty đó tạo ra. Trong các thị trường cạnh tranh, các công ty dựa trên thiên nhiên sẽ cần cung cấp lợi nhuận cạnh tranh cho các nhà đầu tư của mình để đảm bảo nguồn tài chính mà họ cần để hoạt động thành công. Tuy nhiên, để tạo ra lợi nhuận như vậy, các công ty có thể buộc phải kiếm tiền từ các dịch vụ hệ sinh thái hoặc khai thác giá trị từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà họ giám sát thay vì bảo tồn chúng. Nếu việc khai thác giá trị này là cần thiết để thu hút các nhà đầu tư, các hoạt động kinh tế nên được tiến hành theo cách bền vững, minh bạch—ví dụ, thông qua nông nghiệp bền vững hoặc du lịch sinh thái.
Một thách thức khác liên quan đến việc đảm bảo tính minh bạch và giám sát chặt chẽ các hoạt động của các công ty bảo tồn thiên nhiên. Các công ty này phải chứng minh rằng hoạt động của họ thực sự có lợi cho môi trường, nhưng việc đo lường đa dạng sinh học, chẳng hạn, vốn rất khó khăn do bản chất phức tạp của nó. Việc triển khai các khuôn khổ kiểm toán và báo cáo cần thiết để giám sát các hoạt động này cũng là một nhiệm vụ phức tạp, thường đòi hỏi nhiều nguồn lực và chuyên môn. Việc thiếu các số liệu chuẩn hóa cho đa dạng sinh học càng cản trở khả năng đánh giá tác động thực sự của khoản đầu tư của các nhà đầu tư.
Bất chấp những thách thức này, các công ty bảo tồn thiên nhiên hiện thân cho ý tưởng mạnh mẽ rằng việc gán giá trị cho các lợi ích nội tại của thiên nhiên là điều cần thiết để bảo tồn thiên nhiên. Bằng cách thu hút vốn tư nhân vào các nỗ lực bảo tồn, họ có thể giải quyết các nhu cầu tài trợ mà chỉ riêng chính phủ và các tổ chức từ thiện không thể đáp ứng được. Với khoảng cách tài trợ đáng kể để ngăn ngừa mất đa dạng sinh học – ước tính lên tới hơn 700 tỷ đô la mỗi năm – hy vọng là, với các biện pháp bảo vệ phù hợp và hoạt động minh bạch, các công ty bảo tồn thiên nhiên có thể đóng góp có ý nghĩa vào việc bảo tồn môi trường đồng thời mang đến cho các nhà đầu tư triển vọng về lợi nhuận dài hạn.

Kết luận

Đánh giá thiên nhiên trong thị trường tài chính là một nhiệm vụ thiết yếu nhưng phức tạp đòi hỏi những cách tiếp cận sáng tạo và cân nhắc cẩn thận. Trong khi tình trạng hiện tại của các công ty đầu tư bền vững và bảo tồn thiên nhiên mang lại một số hứa hẹn, vẫn còn những thách thức đáng kể trong việc đảm bảo thiên nhiên được đánh giá và bảo vệ đầy đủ. Bằng cách giải quyết những thách thức này, chúng ta có thể tạo ra các tổ chức tài chính hỗ trợ phát triển kinh tế đồng thời thúc đẩy tính bền vững của môi trường.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Những chia rẽ đảng phái sâu rộng vẫn còn trong quan điểm của người Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine

Gần ba năm sau cuộc chiến ở Ukraine, Tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa sẽ nhanh chóng chấm dứt xung đột khi ông nhậm chức. Quan điểm của người Mỹ về sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Ukraine không thay đổi nhiều trong những tháng gần đây, nhưng vẫn tiếp tục có những khác biệt lớn về đảng phái, theo một cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew được tiến hành từ ngày 12 đến ngày 17 tháng 11.
Đảng Cộng hòa có khả năng nói rằng Hoa Kỳ đang hỗ trợ quá nhiều cho Ukraine hơn so với đảng Dân chủ (42% so với 13%).
Những người Cộng hòa cũng ít có khả năng nói rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm giúp Ukraine tự vệ trước cuộc xâm lược của Nga hơn so với những người Dân chủ (36% so với 65%).
Ngoài ra, những người Cộng hòa và những người độc lập thiên về Cộng hòa từ lâu đã ít có khả năng coi cuộc xâm lược của Nga là mối đe dọa lớn đối với lợi ích của Hoa Kỳ hơn những người Dân chủ và những người thiên về Dân chủ. Nhưng khoảng cách đảng phái này đã tăng lên. Chỉ có 19% người Cộng hòa hiện cho rằng cuộc xâm lược là mối đe dọa lớn, so với 42% người Dân chủ.

Lưu ý: Cuộc khảo sát được thực hiện trước khi chính quyền Biden cho phép Ukraine sử dụng vũ khí tầm xa của Hoa Kỳ để tấn công các mục tiêu bên trong nước Nga và cung cấp mìn chống bộ binh cho Ukraine.

Hoa Kỳ hỗ trợ cho Ukraine

Ngày nay, 27% người Mỹ cho rằng Hoa Kỳ đang cung cấp quá nhiều viện trợ cho Ukraine. 25% khác mô tả sự hỗ trợ của Hoa Kỳ là “vừa phải” và 18% cho rằng Hoa Kỳ không cung cấp đủ hỗ trợ. Những chia sẻ này tương tự như quan điểm vào tháng 7, mặc dù người Mỹ hiện có nhiều khả năng nói rằng họ không chắc chắn hơn so với bốn tháng trước (29% so với 25% khi đó).
Trong số những người Cộng hòa, 42% cho rằng Hoa Kỳ đang cung cấp quá nhiều hỗ trợ. 19% khác cho rằng mức hỗ trợ là vừa phải, trong khi một phần mười nói rằng Hoa Kỳ không cung cấp đủ hỗ trợ.
Để so sánh, trong số những người theo đảng Dân chủ, chỉ có 13% nói rằng đất nước đang cung cấp quá nhiều hỗ trợ cho Ukraine. Khoảng ba trong mười người (31%) nói rằng mức hỗ trợ là vừa phải. Một tỷ lệ tương tự (28%) nói rằng Hoa Kỳ không cung cấp đủ hỗ trợ.Những chia rẽ đảng phái sâu rộng vẫn còn trong quan điểm của người Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine_1

Trách nhiệm của Hoa Kỳ trong việc giúp đỡ Ukraine

Người Mỹ cũng chia rẽ về việc liệu Hoa Kỳ có trách nhiệm giúp Ukraine tự vệ trước cuộc xâm lược của Nga hay không. Một nửa người Mỹ cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm này, trong khi 47% cho rằng không. Những quan điểm này hầu như không thay đổi trong vài tháng qua.
Ý kiến ​​của những người ủng hộ về cơ bản cũng giống như hồi tháng 7:
36% đảng viên Cộng hòa cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm giúp Ukraine tự vệ. Tỷ lệ phần trăm tương tự đã nói như vậy vào tháng 7.
65% đảng viên Dân chủ cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm này. Điều đó cũng gần giống với quan điểm vào tháng 7 (khi 63% nói như vậy).Những chia rẽ đảng phái sâu rộng vẫn còn trong quan điểm của người Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine_2

Cuộc xâm lược của Nga là mối đe dọa đối với lợi ích của Hoa Kỳ

Ba trong mười người Mỹ hiện nay nói rằng cuộc xâm lược Ukraine của Nga gây ra mối đe dọa lớn đối với lợi ích của Hoa Kỳ. Những quan điểm này tương đối ổn định trong vài năm qua – mặc dù người Mỹ có nhiều khả năng nói điều này hơn trong những tuần đầu của cuộc xung đột vào năm 2022.
Kể từ năm 2023, đảng Cộng hòa ít có khả năng coi cuộc xâm lược Ukraine của Nga là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ hơn đảng Dân chủ. Nhưng tỷ lệ cho biết điều này hiện đang ở mức thấp: Ngày nay, 19% nói như vậy, giảm so với mức 26% vào tháng 7.
Khoảng bốn trong mười đảng viên Dân chủ (42%) coi cuộc xâm lược của Nga là mối đe dọa lớn. Con số này thấp hơn một chút so với 45% những người nói như vậy vào tháng 7 nhưng ngang bằng với quan điểm của đảng Dân chủ kể từ năm 2023.Những chia rẽ đảng phái sâu rộng vẫn còn trong quan điểm của người Mỹ về cuộc chiến ở Ukraine_3
Nguồn: PEW

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)

Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu

EU cần bao nhiêu đầu tư xanh?

Không có quá trình chuyển đổi xanh nếu không có đầu tư xanh. Thúc đẩy điều này sẽ là thách thức cốt lõi đối với Thỏa thuận Xanh của Châu Âu trong năm năm tới, tạo ra hoặc phá vỡ cơ hội của Liên minh Châu Âu trong việc đạt được các mục tiêu về khí hậu và tăng cường khả năng cạnh tranh và an ninh của mình.
Nhưng thực sự cần bao nhiêu đầu tư xanh để đạt được các mục tiêu khí hậu của EU? Để đánh giá điều này, cần có thông tin chất lượng tốt ở cấp quốc gia. Nhưng bất chấp Thỏa thuận Xanh của Châu Âu và nhiều sáng kiến ​​mà nó đã thúc đẩy, điều này vẫn còn thiếu sót và không nhất quán một cách đáng ngạc nhiên. Tốt nhất là một số kế hoạch năng lượng và khí hậu quốc gia (NECP) của các nước EU đưa ra ước tính chung về số tiền đầu tư cần thiết để đạt được mục tiêu năm 2030, mà không nêu rõ cách tính toán các ước tính đó, khiến không thể đánh giá độ tin cậy của chúng, so sánh chúng theo cách nhất quán hoặc theo dõi tiến độ hướng tới quá trình khử cacbon (ECA, 2023).
Trong trường hợp không có thông tin chính thức đáng tin cậy của quốc gia, nhu cầu đầu tư xanh của châu Âu có thể được hiểu rõ nhất bằng cách xem xét các ước tính trước của Ủy ban châu Âu đối với toàn bộ EU, trong các đánh giá tác động làm cơ sở cho các mục tiêu khí hậu năm 2030 và đề xuất năm 2040 (Ủy ban châu Âu, 2020, 2024).
Theo Ủy ban, từ năm 2011 đến năm 2020, tổng đầu tư vào nguồn cung cấp năng lượng (tức là nhà máy điện và lưới điện), nhu cầu năng lượng (tức là tòa nhà, công nghiệp, nông nghiệp) và giao thông (tức là ô tô, xe tải, phương tiện giao thông công cộng) trung bình đạt 5,8 phần trăm GDP. Để đạt được mục tiêu khí hậu EU 2030 sẽ cần thêm các khoản đầu tư hàng năm khoảng hai phần trăm GDP từ năm 2021 đến năm 2030, một mức phải được duy trì trong hai thập kỷ để đạt mức phát thải ròng bằng không (Bảng 1).Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu_1
Những ước tính này về cơ bản phù hợp với những phát hiện của Pisani-Ferry và Mahfouz (2023) đối với Pháp và với các ước tính toàn cầu từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA, 2023b), Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA, 2023) và Bloomberg New Energy Finance (BNEF, 2024). Chúng cũng phù hợp với các ước tính về nhu cầu đầu tư xanh bổ sung trong giai đoạn 2025-2030 trong báo cáo Draghi (2024) về năng lực cạnh tranh của Châu Âu, bản thân chúng dựa trên các tính toán của Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Cuối cùng, Bizien et al (2024) đã xác nhận rằng khoảng cách giữa các khoản đầu tư khí hậu hiện tại của EU và các ước tính của Ủy ban về nhu cầu trong tương lai lên tới khoảng 2,5 phần trăm GDP vào năm 2022.

Nhu cầu đầu tư khí hậu của EU: điều chỉnh và cảnh báo

Các ước tính nhu cầu đầu tư xanh tiêu đề của Ủy ban châu Âu có sai sót. Chi phí đầu tư của một số hạng mục chính bị phóng đại. Các nhu cầu đầu tư quan trọng khác liên quan đến khí hậu không được đưa vào. Ngay cả sau khi điều chỉnh cho các khoản khai báo quá mức và thiếu hụt, các số liệu vẫn có thể không chắc chắn đáng kể.
Sự cường điệu
Các con số tiêu đề của Ủy ban cho thấy giao thông là hạng mục chi tiêu chính, nhưng 60 phần trăm nhu cầu đầu tư này sẽ phát sinh từ việc thay thế ô tô vốn sẽ diễn ra dù sao đi nữa (dựa trên tuổi thọ trung bình của ô tô là khoảng 10 năm; ACEA, 2023). Nếu điều này bị loại bỏ, Ủy ban dự kiến ​​các khoản đầu tư bổ sung vào giao thông phù hợp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 sẽ bị giới hạn: 0,5 phần trăm GDP hàng năm từ năm 2021 đến năm 2030. Thay vào đó, ngành điện và tòa nhà dự kiến ​​sẽ là những ngành chính đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn để đạt được các mục tiêu về khí hậu. Trong hai ngành này, nhu cầu đầu tư dự kiến ​​sẽ tăng gần gấp đôi so với GDP trong cùng kỳ.
Các số liệu tiêu đề của Ủy ban cũng cố gắng đưa yếu tố thay đổi hành vi vào. Điều này có thể có ý nghĩa quan trọng, vì các biện pháp hành vi tiếp theo (ví dụ như chuyển đổi phương thức nhanh chóng và mô hình di chuyển bền vững, bảo tồn năng lượng, tái chế) có thể giảm nhu cầu đầu tư xanh của EU khoảng tám phần trăm (Bảng 2).
Chiến lược đầu tư để duy trì Thỏa thuận xanh của Châu Âu_2
Những lời nói khiêm tốn
Các con số của Ủy ban Châu Âu chỉ đề cập đến chi tiêu vốn (CAPEX) và không bao gồm chi phí tài chính. Điều này đáng được đề cập vì trong khi CAPEX đại diện cho khoản chi phí chính trong quá trình chuyển đổi xanh, chi phí tài trợ đầu tư sẽ rất đáng kể đối với các tác nhân bị hạn chế tiền mặt và tài chính công sẽ cần can thiệp bằng các công cụ giảm rủi ro để tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân.
Các con số của Ủy ban cũng chỉ xem xét khía cạnh triển khai của quá trình khử cacbon và không bao gồm khía cạnh sản xuất. Nghĩa là, những con số này không tính đến chi phí sản xuất công nghệ sạch cần thiết để đạt được các mục tiêu chính sách công nghiệp của EU, chẳng hạn như những gì được nêu trong Đạo luật Công nghiệp Net-Zero (NZIA, Quy định (EU) 2024/1735). Ủy ban ước tính rằng việc tăng cường năng lực sản xuất công nghệ sạch ở châu Âu để đáp ứng ít nhất 40 phần trăm nhu cầu triển khai hàng năm của EU vào năm 2030 sẽ cần thêm tổng đầu tư khoảng 100 tỷ euro trong giai đoạn 2024-2030. Con số này chiếm khoảng 0,1 phần trăm GDP.
Chúng tôi coi ước tính này là rất thận trọng, đặc biệt là vì NZIA chỉ tập trung vào một số công nghệ và chuỗi cung ứng trong nước hạn chế, và bỏ qua chi phí của các chương trình nâng cao kỹ năng và đảm bảo tiếp cận các nguyên liệu thô quan trọng mang tính chiến lược cơ bản. Ngoài ra, nhu cầu đầu tư xanh vào sản xuất có thể lớn hơn nhiều nếu an ninh kinh tế được cho là đòi hỏi phải đưa sản xuất trở lại mạnh mẽ.
Finally, the Commission’s estimates deal only with the mitigation side of climate action and do not include climate adaptation investment. This is a major gap, as the EU’s need for climate adaptation already is and will be substantial, even if mitigation proceeds on schedule. Estimates of adaptation investment involve considerable uncertainty. For the EU they are currently estimated to range between €35 billion and €500 billion annually, a huge range that reflects different underlying assumptions and methodological approaches (EIB, 2021a). It is urgent to narrow the range of plausible estimates and develop better assessment of the distribution of those investments over time and across countries.
Additional uncertainty
The above estimates are underpinned by a number of assumptions, including on the trajectory of the carbon price, timing of decarbonisation efforts, the role of innovation in slashing clean-tech costs and system substitutability. These of course could change. It should also be clear that the estimates are only for decarbonisation investments, and do not include the other environmental and circular economy parts of the European Green Deal. Nor do they include the investments required to mobilise all the necessary resources, such as reskilling/upskilling of workers from brown to green industries and measures to tackle the social implications of climate policy. This last point is particularly relevant, because there will be a great need from 2025-2030 to deal with the complex distributional implications of buildings and transport decarbonisation, from which emissions reductions have so far been relatively small. Avoiding political backlash may involve offering financial incentives to households in return for adopting costlier green technologies.
To summarise: because behavioural changes could be more significant than assumed, the European Commission’s headline investment estimates could be overestimating overall and private mitigation-related investment needs (section 2.1). However, total climate-related transition needs should also include adaptation investments, the costs of reskilling and the cost difference between investment in green tech and the investment in brown tech that would otherwise have happened. The size of these excluded items in very uncertain, mostly because of uncertainty surrounding adaptation needs. Consequently, the total investment need for the green transition up to 2030 is likely to exceed the Commission’s estimates by a wide margin. This is even more the case for the transition up to 2040.

Public investment needs to reach the EU 2030 climate goal

If achieving the EU climate goals requires a substantial increase in investment, who is going to pay? The European Commission does not provide specific figures for this, mentioning only that the private sector is expected to be the main source of investment in the electricity system and industry, while public funding is expected to play a substantial role in the buildings and transport sectors, and in supporting innovative clean-tech uptake in the energy system and the industrial sector.
EIB (2021b) and Darvas and Wolff (2022) estimated the public share of green investment to be about 25 percent. However, these exercises are characterised by high uncertainty. For instance, by providing estimates for each category of investment, Pisani-Ferry and Mahfouz (2023) estimated this share to be higher for France: 50 percent in an optimal scenario for the country, also because of France’s larger public sector and greater share of public buildings than other countries. This higher figure is in line with a granular analysis by Baccianti (2022) for the EU, the central scenario of which also points to a roughly 50 percent public share of green investment.
Based on these different exercises, we can assume the public share of additional green investments from 2025-2030 to range between 25 percent and 50 percent. Given that the annual additional investments to reach the EU 2030 climate target are estimated at two percent of GDP, the additional public effort to reach the EU 2030 climate target would thus range between 0.5 percent and one percent of GDP over 2025-2030.
Given limited public finances, it will be crucial to make all the necessary efforts to stay at the lower end of this range. In other words, the available resources should be focused on those areas where private finance alone cannot deliver (ie where clear market failures exist). This includes:
RD support and support for early adoption of innovative clean technologies. This is what allows the creation of economies of scale, leading to steep cost reductions, which in turn progressively reduce the need for public support as the ‘green premium’ thins out. This has happened with wind and solar energy. IRENA estimated that between 2010 and 2022, the average cost of generating electricity from solar PV fell by 89 percent – currently almost one-third cheaper than the cheapest fossil fuel globally – while the cost of generating electricity with onshore wind fell by 69 percent. This is why countries including Germany have been able to rethink their investment support for renewables, and why the share of public investment to meet EU climate targets in the power sector is estimated in the relatively low range of 15 percent to 20 percent (Baccianti, 2022).
Financing electricity and transport infrastructure, as well as renovation of public buildings. For example, public funding will need to pay for a significant share of investment in railway networks, public transport and district heating (Baccianti, 2022; OBR, 2021).
Provision of financial de-risking tools to lower the cost of capital for private investors in green projects. Many clean technologies are characterised by high CAPEX and low operating costs (OPEX). This is true for wind and solar generation, electric vehicles and buildings retrofitting. The cost of capital thus plays a key role in the green transition, providing a critical benchmark to assess the risk and return preferences of investors, and acting as a lever for financial flows to influence prices and choices in the real energy economy (IEA, 2021). Lowering the cost of capital to foster private investment can be done through instruments such as preferential loans and guarantees to both firms and households. For instance, zero-interest loans in France, granted under the éco-Prêt à Taux Zéro (éco-PTZ) programme boosted energy-renovation rates across the country thanks to high take-up among the middle class (Eryzhenskiy et al, 2022).
Provision of direct financial support and compensation to the most vulnerable to ensure a socially fair transition. For most vulnerable households, direct public support is needed to compensate for the higher energy costs linked to climate policy, and to ensure take-up of green alternatives. For example, the phase-in of an EU carbon price on household and road transport emissions will likely be regressive, disproportionally affecting vulnerable households that rely on fossil fuels for domestic heating and lack the resources needed to change their vehicles. Directing support to the most vulnerable would help reduce both emissions and energy poverty. For instance, prioritising grants for the worst-performing buildings, often occupied by vulnerable consumers, will yield climate benefits and benefits in terms of improved air quality, health, productivity, energy security and lower future government outlays to alleviate energy poverty (Vailles et al, 2023; Keliauskaite et al, 2024).
The upshot is that the EU has embarked on a transformational transition without mapping out in detail how much investment this transition will require, and without equipping itself with the capacity to monitor, either at EU-level or national level, the actual efforts and the remaining investment gap. Knowing the rough direction of travel is like crossing the Atlantic without a compass, and is not enough.

A perfect storm for 2025-2030

Even if governments can ensure the substitutability of public finance with private finance, achieving the EU’s 2030 climate goal will still require public investment during 2025-2030 of at least 0.5 percent of GDP. Delivering this will be tough for five main reasons.
The main source of EU grants for the green transition is running out
Since the launch of the European Green Deal in 2019, the EU has played an increasingly direct role in fostering green investment, including through carbon pricing and regulations, and also by offering financial incentives. Balancing prohibitions and incentives is crucial to ensure the political viability of the green transition and to avoid a dangerous ‘blame game’ with national capitals (Pisani-Ferry et al, 2023). Two major steps have been taken on the financing of the green transition. First, its was decided to set a 30 percent minimum green spending threshold in the EU budget (the multiannual financial framework, MFF), amounting to about €1 trillion for 2021-2027. Second, a 37 percent minimum green spending threshold was established for the main part of the NextGenerationEU post-pandemic instrument, the Recovery and Resilience Facility (RRF), which was endowed with financial firepower of €723 billion for 2021-2026, including €338 billion in grants.
The RRF is currently the largest source of EU grants for the green transition, especially for buildings and transport decarbonisation (Lenaerts and Tagliapietra, 2021). On top of the MFF, green grants from the RRF and other instruments – the Innovation Fund, the Modernisation Fund and the Just Transition Fund – amount to about €50 billion per year.
But the RRF ends in 2026. This will leave a major gap in EU funding for the green transition, which will decrease to slightly less than €20 billion per year. In other words, a gap of about €180 billion for the 2024 to 2030 period will open up (Pisani-Ferry et al, 2023). This is highly problematic. It will happen just as EU countries are required to deepen their decarbonisation efforts substantially, starting with difficult sectors such as buildings and transport. The risk of political pushback from national capitals will likely be serious as a result.
The reformed EU fiscal framework is not conducive to green investment
A reform of the EU’s fiscal framework – which implements the EU Treaty requirement for countries to keep their budget deficits within 3 percent of GDP, and their public debt within 60 percent of GDP – took effect in April 2024. The framework as updated imposes restrictions that could make the financing of new green investment at national level very difficult for countries with debts and deficits considered excessive. Furthermore, the reformed fiscal framework does not include a ‘green golden rule’, which would exclude any increase in net green public investment from the fiscal indicators used to measure compliance with the fiscal rules. Nor does it provide exemptions even for EU-endorsed national green investments (see Box 1). These constraints make public investment for decarbonisation harder to realise.
False narratives on climate policies are increasingly promoted
Even before the 2024 US presidential election, swings to populist nationalist parties in large countries including Germany and France suggested unease among voters about climate policy. These parties indeed often preach the false belief that decarbonisation is detrimental to competitiveness and security, when it is exactly the opposite. Green investment is fundamental for the EU to meet its pressing competitiveness and security objectives, even if complex trade-offs exist between these different societal objectives.
Being poorly endowed with domestic resources, Europe is highly dependent on fossil-fuel imports, as dramatically illustrated by the 2022-2023 energy crisis. This exposes the EU to global oil and gas market volatility, undermining competitiveness and threatening security. For Europe, the only structural solution is the green transition. The EU is endowed with abundant domestic renewable energy resources, which can be exploited in a cost-effective manner, as generating electricity with wind and solar energy is now cheaper than doing so with coal and gas (Ember, 2024).
It is important to note that these estimates exclude subsidies, tax credits and system integration costs (eg grid connection and flexibility solutions to cope with intermittent renewable energy sources). It should also be mentioned that deploying renewables rapidly will not only lower wholesale power prices, but also cut bills for households, even accounting for additional costs such as grid expansion (Ember, 2024). This is the result of the global roll-out of clean technologies and continuing cost reductions in this sector (Claeys et al, 2024). According to the IEA (2023a), EU electricity consumers saved €100 billion during the peak of the energy crisis in 2021-2023 thanks to additional electricity generation from newly installed solar PV and wind capacity.
While decarbonisation was a priority in its own right until 2022, it is now the only available way to structurally secure energy supplies and to lower energy costs for the European economy. However, it will take time to get there. Most modelling exercises, including the European Commission’s, expect renewables to really cut electricity prices only in the early 2030s (Gasparella et al, 2023). For this to happen, massive investments will be required for renewable generation build-up, electricity grid expansion and provisions of flexibility solutions, such as electricity storage.
The trade-offs between decarbonisation, competitiveness and security are increasingly difficult
Decarbonisation raises three main issues: the fiscal cost, impact on competitiveness and implications for economic security. All three objectives of fiscal sustainability, competitiveness and economic security are worth pursuing, but cannot be achieved simultaneously, at least over a five-to-15 year period. Policy must therefore confront trade-offs. For example, relying on Chinese green equipment may help contain the fiscal cost of the transition and be good for competitiveness, but at the cost of undermining economic security. Conversely, European sourcing may head off economic security risks, but is likely to increase the fiscal cost of the transition.
Moreover, the nature or the acuteness of the trade-offs depend on the instruments chosen to reach net zero. Carbon pricing (through taxation or the auctioning of emission permits) alleviates the budget constraint but raises issues of social acceptability. Regulation does not raise fiscal concerns, but by shifting the decarbonisation cost onto the business sector, it may negatively affect competitiveness. Subsidisation of green investment may be good for economic security and competitiveness, but entails a fiscal cost (which the US Inflation Reduction Act (IRA) suggests could be major). Trade-offs are therefore instrument-specific.
EU green investment needs, and the public share of them, depend on the industrial policy approach. A strong industrial reshoring strategy would, for instance, lead to higher costs for clean technologies and therefore to higher green-investment needs. On the contrary, a more balanced and innovation-driven industrial policy might foster clean-tech cost reductions and therefore reduce green-investment needs. As industrial competitiveness will be a major driver of the 2024-2029 EU cycle, this trade-off will have to be confronted by policymakers at both EU and national levels.
In summary, Europe is currently not on track to reach its climate targets. It is at a juncture where political resistance to decarbonisation is mounting and where budgetary means to buy off consent are becoming scarce, at both EU level (because the main source of financing is drying up) and national level (because the fiscal rules leave little room for green investment). Moreover, the EU faces increasingly acute trade-offs between fiscal sustainability, competitiveness and economic security.
The return of President Trump further exacerbates the problem
The return of President Trump is set to exacerbate competitiveness and economic security challenges. His expected dismantling of US climate and environmental policies will fuel the narrative of populist nationalist parties in Europe, while his agenda is set to worsen Europe’s decarbonisation, competitiveness and security conundrum. As more public spending is likely to be needed in the defence sector, less public resources might be available for the green transition.
Confronting this challenge, it must be clear that Europe’s own economic interest is to push ahead with the green transition, for at least three reasons. First, global decarbonisation is vital for the EU in seeking to limit increasingly expensive climate damage in the future. Second, it will help the EU enhance its economic competitiveness and economic security. Third, it represents a clean-tech export opportunity for Europe. The EU must stick with its plan even as difficult trade-offs get tougher, and try to turn this situation into an opportunity to attract those clean investments that might now not materialise in the US, at least over the next four years.
It is important to stress that Trump’s fossil-fuel agenda is in the selfish interest of the US but it has no content for the EU, which is not endowed with fossil-fuel resources. Trump will aim to make the US not just ‘energy independent’, but ‘energy dominant’. He has pledged to halve natural gas and electricity prices within a year, largely through increased natural gas production. If this happens, it would widen the EU-US energy price gap, further undermining EU industrial competitiveness. As previously illustrated, the only way for Europe to provide a structural solution to this problem is to accelerate green investments. Trump’s return should thus be taken as a substantial boost to the implementation of the EU’s clean investment agenda.

Six proposals to make the necessary climate investments happen

To reach the EU’s 2030 climate target, the European Commission should put forward a new transformation programme, with both a private and a public strand. For the private strand, policy should aim at ensuring the credibility of the climate-policy strategy, and at creating the framework conditions for a full mobilisation of savings. For the public strand, the aim should to maximise the firepower of limited fiscal resources.
The business strand: ensure credibility and the full mobilisation of savings
Proposal 1: Ensure the credibility of the EU climate-policy framework and overall policy consistency
Credible carbon pricing signals and credible climate and environmental regulations drive expectations and underpin the green investment decisions of households and firms. Effective implementation of this toolkit can reduce the overall fiscal cost of the green transition.
The European Green Deal must thus be implemented fully, avoiding the temptation to water down its provisions because of competitiveness concerns. Reopening and weakening laws agreed after years of negotiations would do nothing to support the competitiveness of European industry and would only risk postponing the green investment decisions of families and businesses by undermining confidence in the reliability of Europe’s green trajectory.
An element that should not be neglected is taxation. Current European taxation systems still provide generous fossil-fuel subsidies and it is urgent to rethink them. After previous failed attempts, the now more than two-decades old EU Energy Taxation Directive (Council Directive 2003/96/EC) must be revised to align European taxation systems with EU climate policy, and to incentivise clean-tech uptake.
Proposal 2: Unleash green private investments through a capital markets union that works, an effective sustainable finance framework and a stronger European Investment Bank
As the private sector will have to account for most green investment, the capability to adequately leverage private investments will ultimately make or break the European Green Deal. The EU can take two important actions on this: i) deliver an effective capital markets union (CMU); ii) deliver an effective sustainable finance framework and iii) increase the firepower of the European Investment Bank (EIB).
A CMU that works
The cost of accessing finance is an important factor in determining whether households and firms can undertake capital-intensive green investments. The EU financial system is highly bank-dominated and fragmented along national lines, making it ill-suited for enabling the massive investments needed for the green transition through the provision of private capital. As a consequence, as noted by Letta (2024), the EU’s share of global capital-market activities – including equity issuance, total market capitalisation and corporate bond issuance – does not align proportionately with its GDP. Economic analysis suggests that this situation makes the EU more prone to crises and more likely to grow at a slower rate (Sapir et al, 2018).
Twin projects have been undertaken to move from fragmented national financial systems to a single European financial system that can finance projects at a European scale: the banking union (since 2012) and the capital markets union (since 2014). Although integrating and deepening capital markets has been a long-standing EU goal, actual progress on the CMU has been very limited. Giving substance to this project is now urgent to spur the private investments needed for the green transition. As suggested by Merler and Véron (2024), the European Commission should advance the CMU primarily by focusing on the integration of capital-markets supervision at EU level, as that is the area with the most immediate potential for progress.
Reform should also streamline the jumble of market infrastructures, asset management and auditing frameworks that currently prevent the efficient pan-European allocation of European savings to European projects, including those needed for the green transition. After years of procrastination, it is time to move and create a direct connection between the funding of the green transition and the development of the CMU.
Deliver an effective sustainable finance framework
The EU has been a first mover in sustainable finance. However, as pointed out by Merler (2024), the EU’s legal framework on sustainable finance suffers from three flaws:
Its centrepiece – the Taxonomy Regulation (Regulation (EU) 2020/852), which defines what counts as sustainable – is hampered by conceptual and usability shortcomings and as a result has not gained traction as the reference framework among corporates and investors for issuance or investment.
The second pillar – the EU Sustainable Finance Disclosure Regulation (Regulation (EU) 2019/2088) – suffers from a structural weakness: its key concept of ‘sustainable investment’ is not clearly defined.
Lastly, the EU lacks a coherent framework for transition finance, which is currently not properly defined in EU legislation.
These flaws risk limiting the effectiveness of EU regulation in leveraging financial markets to meet climate goals. As suggested by Merler and Véron (2024), the EU should take three actions to address this problem: i) better define ‘sustainable investment’ in the disclosure regulation, and ‘transition finance’ in the EU legal framework; ii) develop a standard for sustainability-linked bonds and other types of transition-finance instruments; iii) review how environmental, social and governance (ESG) ratings are regulated to make them more impactful.
Increase the firepower of the EIB
The EIB has played an important role in fostering clean investments under the auspices of the so-called Juncker Plan (now renamed InvestEU), a 2015 EU initiative to boost investment. EIB guarantees should amount to €33.7 billion to support about €370 billion in private investments by 2027. But more can and should be done to increase the role of the EIB in fostering investment across the EU, and also to increase its risk profile.
An important but still modest step has been taken by the EIB Board of Governors, which in 2024 proposed to change the statutory limit on its gearing ratio (ie how much it can lend in relation to its own resources), raising it from 250 percent to 290 percent. With a total balance sheet close to €600 billion, the EIB has played an increasingly significant role in the financing of the green transition, in accordance with its 2019 decision to become ‘the EU’s climate bank’, and to devote more than 50 percent of its investments to projects supporting climate action and environmental sustainability.
The EIB Board of Governors in June 2024 confirmed the financing of the green transition as the bank’s first priority, envisaging an increase in its lending to interconnectors and grids, energy efficiency, energy storage and renewables, and clean-tech manufacturing projects (EIB, 2024a). Financing activity of up to €95 billion is foreseen for 2024-2027, with well above half of investments going to the green transition. This compares to financing activity of €84 billion in 2023, of which more than half is already focused on the green transition (EIB, 2024b).
This is a good step but a modest one, given the scale of investment the EU needs in the coming years. The EIB should be more ambitious on the level of its financial activity. The EU should continue to provide the EIB with sufficient mandates and guarantees from the MFF, as these are essential to maintain the EIB’s current funding levels and to deploy more high-risk impact finance – similarly to national promotional banks (eg Germany’s KfW, France’s Groupe Caisse des Dépôts, Italy’s Cassa Depositi e Prestiti and Spain’s Instituto de Credito Oficial), which are underwritten by national guarantees.
An additional step to form up the EIB’s role in fostering private green investment was proposed by Letta (2024): the launch of a European Green Guarantee (EGG). This would entail the European Commission and EIB developing jointly an EU-wide scheme of guarantees to support bank lending to green investment projects and companies, with the EIB evaluating specific proposals from commercial banks and/or national financial institutions, and awarding the guarantee that would enable them to provide the necessary funding to companies. Based on a resource multiplier of 12 (like the original Juncker Plan), €25 billion to €30 billion in guarantees would trigger €300 billion to €350 billion in green investment. Under this scheme, European banks would be able to play a greater role in funding green companies, as the EGG would neutralise the so-called ‘green transition risk’, which prices the inherent risk of lending to green companies. The EGG would thus allow the EIB to reinforce significantly its catalytic role in private green investment.
The public strand: maximising the firepower of limited fiscal resources
Proposal 3: Turn NECPs into national green-investment strategies and attach conditions to the disbursement of EU funds
The national energy and climate plans (NECPs) of EU countries remain bureaucratic exercises without substantial impact on the formulation and implementation of national energy policies (Pisani-Ferry et al, 2023). NECPs must be turned into real national green-investment strategies, providing a point of reference for investors, stakeholders and citizens in making investment decisions. Governments should be obliged to set out in their NECPs a detailed, bottom-up analysis of their green investment needs, and an implementation roadmap with clear milestones or key performance indicators (KPIs).
The disbursement of EU green funds should be made conditional on the efficient achievement of these KPIs. This would be in line with the approach of linking the future EU budget with national reforms and investments, put forward by Ursula von der Leyen ahead of the European elections. As part of this, EU funds should be better focused on European green public goods with a high level of additionality (eg electricity interconnections) and measures that tackle the distributional impacts of climate policy.
Much more coordinated development of renewable energy and electricity-grid investment across Europe would yield substantial ‘techno-economic’ benefits, based on the design and operation of several European national electricity systems jointly, rather than individually. These benefits will increase massively with the development of renewables because of the harnessing of regional advantages, reducing the need for expensive back-up capacity and enhancing resilience to shocks (Zachmann et al, 2024).
Proposal 4: Revise the EU fiscal framework to introduce a ‘fiscally responsible public investment rule’
The reform of the EU fiscal framework has not left adequate room for green public investment. The framework should be revised by exempting well-specified public investment in decarbonisation, approved by the Council of the EU, from the application of minimum adjustments required under the EDP and the associated safeguards.
The problem with public investment in decarbonisation is that many of these investments are unprofitable at the current carbon price, taking into account the prevailing discount rate (for households) or the cost of capital (for businesses and local governments). Belle-Larant et al (2024) estimated that in France, only one-third of green investments in the transport and building sectors are profitable at the current carbon-price level. This implies that they won’t happen without public support.
Governments should thus play an important role here. But the new EU fiscal rules prevent countries that are subject to the EDP from sustaining clean investments. The framework should be amended so that economically-sound public investment that is expected to result in measurable reductions in emissions can happen. As a rule, this exemption should be conditional on: (a) the allocation of the future savings from reductions in fossil-fuel consumption to the reduction of public deficits and (b) adequate monitoring of implementation.
Proposal 5: Put the EU budget at the service of the green transformation
Increasing the minimum green spending threshold in the EU Multiannual Financial Framework (MFF) from 20 percent in 2014-2020 to 30 percent in 2021-2027 was an important step, consistent with the EU’s tougher climate goals. However, no interim assessment has been performed on compliance with the threshold and effectiveness of the spending. This should be done, taking into account that the European Court of Auditors found that the reported green spending in the MFF from 2014-2020 was not always relevant to climate action and that climate investment reporting was overstated (ECA, 2022).
In the context of the approaching phase-out of the Recovery and Resilience Facility, maintaining the current green spending threshold in the 2028-2034 MFF should be seen as a bare minimum for the EU. New strategic priorities, including security and defence, should be met in parallel – and not at the expense – of the green transition. The EU budget should also be more focused on European green public goods and measures aimed at leveraging national actions to tackle the distributional impacts of climate policy. As we have noted, the disbursement of the EU green budget should be made conditional on the achievement of KPIs.
Commission President von der Leyen is right to propose the creation of a new European Competitiveness Fund to invest in clean-tech manufacturing, AI, space and biotech technologies (von der Leyen, 2024). EU countries should not kill this proposal, as was done with the European Sovereignty Fund, and should instead consider different funding options, including new EU joint borrowing as suggested by Draghi (2024). The European Competitiveness Fund should accompany the implementation of a truly European industrial policy, and could become the main EU industrial policy investment vehicle in the context of which other tools, such as the EU Innovation Fund, could be framed while maintaining their operational autonomy. That is, the European Competitiveness Fund should be a one-stop-shop able to ensure the availability and accessibility of EU funds for clean-tech manufacturing.
Availability and accessibility are essential to maximise the impact of public money. Without such a vehicle at EU level, public incentives to spur private investment in clean tech and other technologies would predominantly come from national state aid, which would create risks of single-market fragmentation. The new Competitiveness Fund should:
Focus on supporting the development and scaling-up of pan-European public-private eco-systems, for instance topping-up national support for Important Projects of Common European Interest (IPCEIs);
Support the whole innovation cycle in an integrated manner, from disruptive innovation to deployment at scale;
Prioritise areas in which market, network and transition failures are most likely and government selection failures least likely, ensuring additionality and leveraging of other (member state) public and private funding (Tagliapietra et al, 2023).
Proposal 6: Maximise the use of ETS revenues
As the EU carbon price has increased significantly in recent years, so too have the revenues accruing to governments from auctioning off emission permits – rising from around €5 billion in 2017 to €38.8 billion in 2022. Of the total auction revenues generated in 2022, €30 billion went directly to EU countries, while the rest went into the EU Innovation Fund (€3.2 billion) and the Modernisation Fund (€3.4 billion) (EEA, 2023). However, while between 2013 and 2022 national governments only spent around three quarters of the total revenues they received on climate-related activities, the ETS rules now oblige them to spend all their revenues for green purposes.
In May 2023, EU countries agreed to introduce a second emissions trading scheme (ETS2). This will put a price on emissions from direct fuel combustion, including gas and oil boilers in private homes, and fuel combustion in road transport. Taking effect in 2027, ETS2 will require upstream fossil-fuel suppliers to surrender carbon certificates equivalent to the emissions generated by consumers of their fuels. The auctioning of ETS2 allowances will also generate substantial revenues of about €50 billion annually at a carbon price of €45/tonne (in 2020 prices) – the level of the cap that will be in place during the first three years of operation of ETS2. A maximum of €65 billion from the 2026-2032 revenues will be allocated to the Social Climate Fund (SCF), which is intended to support vulnerable households, micro-enterprises and transport users who face higher costs.
To access the SCF, EU countries must develop by June 2025 social climate plans that outline how they will use these funds to support vulnerable communities. In addition, countries must contribute at least another 25 percent of the costs of their social climate plans, increasing SCF resources to at least €87 billion (Cludius et al, 2023). The remaining ETS2 revenues will be managed by national governments; EU rules require these revenues to be used to deploy low-emission solutions in transport and heating, or to mitigate social impacts.
Cautiously assuming an ETS carbon price of €75 in 2030, and an ETS2 carbon price of €45, total revenues would amount to €65 billion in that year, of which €50 billion would accrue to EU countries. If carbon prices rise by 2030 to €130 and €100 on the ETS and ETS2 markets respectively, total revenues would be €134 billion in that year, of which around €100 billion would accrue to member countries. Being in the order of €50 billion to €100 billion in 2030, ETS revenues accruing to member states would thus be significant, and should be used to maximum benefit for the transition. The EU should closely monitor member state policies to ensure the money is well spent.

Conclusion

Để đạt được các mục tiêu về khí hậu, EU sẽ cần thêm các khoản đầu tư hàng năm khoảng hai phần trăm GDP trong giai đoạn 2025-2030, tương đương với chi tiêu cho RD của EU vào năm 2022 – ước tính là 2,2 phần trăm GDP (Eurostat, 2024). Những nhu cầu đầu tư này là đáng kể, nhưng có thể quản lý được.
Việc tìm ra các khoản tiền cũng cấp bách và cần thiết. Với Thỏa thuận Xanh của Châu Âu, EU đã định vị mình là người đi đầu toàn cầu trong chính sách khí hậu. Với nền kinh tế chính trị của hành động khí hậu toàn cầu và khả năng Hoa Kỳ rút khỏi Thỏa thuận Paris, sự thành công của Thỏa thuận Xanh của Châu Âu là rất quan trọng để quá trình phi cacbon hóa toàn cầu có cơ hội. Điều này quan trọng hơn bao giờ hết, vì tác động của biến đổi khí hậu trên toàn thế giới đang ngày càng trở nên rõ ràng và tốn kém.
Theo quan điểm toàn cầu này, cần nhớ rằng chi phí cho hành động ứng phó với biến đổi khí hậu thấp hơn nhiều so với chi phí cho việc không hành động, đặc biệt là đối với châu Âu, lục địa nóng lên nhanh nhất. Ví dụ, lũ lụt nghiêm trọng ở Slovenia vào năm 2023 đã gây ra thiệt hại ước tính khoảng 16 phần trăm GDP quốc gia (IMF, 2024). Những sự kiện như vậy gây ra những tác động nghiêm trọng, trực tiếp đến các khu định cư, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và sức khỏe con người. Chúng cũng dẫn đến những tác động kinh tế rộng hơn ở các khu vực bị ảnh hưởng và những thách thức tài chính lớn ở cấp quốc gia.
Như chúng tôi đã trình bày, phần chia sẻ công khai của các khoản đầu tư bổ sung cần thiết để EU đạt được mục tiêu khí hậu năm 2030 của mình phải nằm trong khoảng từ 0,5 phần trăm đến một phần trăm GDP trong giai đoạn 2025-2030. Các ràng buộc về tài chính không được cản trở việc huy động các nguồn lực này. Nợ công cho các khoản đầu tư như vậy phải được coi là ‘khoản nợ tốt’, được biện minh đầy đủ bằng nhu cầu tài trợ một lần cho quá trình chuyển đổi đặc biệt và tạm thời sẽ mang lại lợi ích to lớn cho các thế hệ tương lai. Cũng cần nhấn mạnh rằng chi tiêu công cho việc giảm thiểu khí hậu hiện nay sẽ làm giảm nhu cầu chi tiêu công cho việc thích ứng với khí hậu trong tương lai có khả năng cao hơn nhiều. Một khuôn khổ đầu tư xanh có trách nhiệm theo hướng mà chúng tôi đề xuất sẽ giúp thuyết phục thị trường rằng khoản nợ xanh này có thể và phải được tài trợ.

==============================

💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘

🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp

(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)