Châu Á thống trị tăng trưởng nhu cầu
Phía cung của phương trình tương đối dễ dự báo, dựa trên các dự án có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, nhu cầu khó dự báo hơn rất nhiều. Điều này đặc biệt là do quá trình chuyển đổi năng lượng hiện nay và những con đường khác nhau mà các quốc gia có thể thực hiện để cuối cùng đạt được các mục tiêu đầy tham vọng của mình. Tương tự như danh sách các dự án xuất khẩu LNG, chúng ta có thể xem xét danh sách các dự án cho các đơn vị tái hóa khí tại điểm đến.
Rõ ràng, đây không phải là sự đảm bảo cho nhu cầu mạnh mẽ. Ví dụ, ở châu Âu, đã có sự đầu tư đáng kể vào công suất tái hóa khí, nhưng xét đến các mục tiêu về khí hậu của Ủy ban châu Âu, phần lớn công suất này có nguy cơ bị sử dụng không đúng mức nghiêm trọng trong dài hạn.
Trên toàn cầu, chúng tôi giả định rằng nhu cầu sẽ tăng khoảng 35% vào cuối thập kỷ này. Châu Á sẽ thống trị mức tăng trưởng này, trong khi mức tăng trưởng ổn định đến khiêm tốn được kỳ vọng ở các khu vực khác. Trung Quốc và Ấn Độ sẽ chứng kiến mức tăng trưởng tuyệt đối lớn nhất về nhu cầu LNG cho đến năm 2030 và Trung Quốc sẽ giữ vững vị trí là nhà nhập khẩu lớn nhất.
Mặc dù mức tăng trưởng nhu cầu dự kiến trong 6 năm tới được cho là thấp hơn so với những gì đã đạt được trong 6 năm trước đó, nhưng điều quan trọng cần nhớ là đã có những thay đổi đáng kể trên thị trường LNG trong những năm gần đây khi châu Âu trở thành khách hàng mua LNG đáng kể. Mặc dù chúng tôi nhận thấy nhu cầu LNG của châu Âu sẽ tăng trong ngắn hạn khi khu vực này tiếp tục loại bỏ nhiên liệu hóa thạch của Nga, nhưng tốc độ tăng trưởng sẽ khiêm tốn hơn nhiều.
Châu Âu và nguy cơ tái hóa khí dư thừa công suất
Kể từ khi Nga xâm chiếm Ukraine và tác động lan tỏa của nó đối với dòng khí đốt của Nga sang châu Âu, sự phụ thuộc của khu vực vào LNG đã tăng lên đáng kể. Năm 2021, EU nhập khẩu 81 bcm LNG; theo dữ liệu của LSEG, khối lượng này tăng lên khoảng 139 bcm vào năm 2023, chiếm hơn 40% tổng lượng nhập khẩu của EU. Và với nhu cầu khí đốt của EU vẫn thấp hơn 17% so với mức trung bình giai đoạn 2017-21, nhu cầu LNG có khả năng tăng trưởng hơn nữa khi nguồn cung mới xuất hiện trên thị trường, đặc biệt nếu EU nghiêm túc về việc chấm dứt toàn bộ hoạt động nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch của Nga vào năm 2027.
Tuy nhiên, nhu cầu khí đốt của châu Âu đã suy giảm về cơ cấu trước chiến tranh. Chiến tranh chỉ đẩy nhanh mọi việc. Mặc dù nhu cầu khí đốt công nghiệp vẫn có khả năng phục hồi nhưng triển vọng của ngành sản xuất điện lại tiêu cực hơn. Việc tiếp tục triển khai năng lượng tái tạo có thể sẽ chỉ gây thêm gánh nặng cho nhu cầu khí đốt của châu Âu. Việc đầu tư vào năng lực tái hóa khí đã giúp châu Âu giải quyết tình trạng ngừng cung cấp khí đốt qua đường ống của Nga.
Việc tăng công suất của đơn vị tái hóa khí lưu trữ nổi (FSRU) đã đặc biệt giúp ích cho châu Âu. Kể từ năm 2022, Châu Âu đã chứng kiến hơn 113 bcm tái hóa khí được đưa vào hoạt động hoặc chuẩn bị đưa vào hoạt động. Điều thú vị là hơn 70% công suất tái hóa khí này là ở dạng FSRU. Rủi ro đối với châu Âu, nơi nhu cầu khí đốt đang suy giảm về cơ cấu, là khả năng dư thừa công suất ở phía tái hóa khí. Do đó, thật hợp lý khi chúng ta thấy Châu Âu chủ yếu đi theo lộ trình FSRU, nơi công suất này có thể được chuyển sang các thị trường khác nếu không được sử dụng đúng mức ở Châu Âu.
Công suất tái hóa khí ở châu Âu dự kiến đạt tổng ít nhất 368 bcm vào cuối thập kỷ này, trong khi Năng lượng Quốc tế dự báo theo kịch bản Cam kết đã công bố, nhu cầu khí đốt của châu Âu sẽ đạt tổng cộng 390 bcm vào năm 2030. Nếu thành hiện thực, điều này sẽ khiến châu Âu rơi vào tình trạng tái hóa khí dư thừa công suất, do khu vực này vẫn nhận được một phần lớn khí đốt qua đường ống từ các nguồn khác.
Nhật Bản Nhu cầu Hàn Quốc có thể giảm
Trong lịch sử, Nhật Bản là nước nhập khẩu LNG lớn nhất. Tuy nhiên, trong những năm gần đây nước này đã cạnh tranh với Trung Quốc để giành vị trí dẫn đầu. Nhập khẩu LNG của Nhật Bản đang suy giảm về cơ cấu. Nhập khẩu đạt mức cao 122bcm vào năm 2014 và giảm hàng năm kể từ đó, xuống còn 90bcm vào năm 2023. Nguyên nhân chính dẫn đến điều này là sự trở lại của công suất hạt nhân sau thảm họa Fukushima năm 2011. Sản lượng điện hạt nhân của Nhật Bản đã tăng 166% kể từ năm 2017 lên 77,5 TWh vào năm 2023.
Trong cùng thời gian, sản lượng điện gió và năng lượng mặt trời đã tăng 78% lên 107TWh. Nhật Bản đặt mục tiêu giảm sản lượng nhiệt điện như đã nêu trong Kế hoạch năng lượng chiến lược lần thứ 6. Chính phủ muốn giảm 46% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với mức của năm 2013. Để đạt được điều này, Nhật Bản đặt mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng lên 36-38% từ mức 18% trong năm tài chính 2019. Năng lượng hạt nhân dự kiến sẽ tăng từ 6% lên 20-22%, trong khi mục tiêu là khí đốt giảm từ 37% xuống 20%.
Hàn Quốc là một nhà nhập khẩu LNG quan trọng khác, nhập khẩu 61 bcm vào năm 2023, trở thành quốc gia lớn thứ ba. Tuy nhiên, Hàn Quốc cũng đặt mục tiêu giảm lượng khí thải với mục tiêu cắt giảm 44% vào năm 2030 so với mức năm 2018. Là một phần trong Kế hoạch cơ bản lần thứ 10 của Hàn Quốc về cung và cầu điện dài hạn, mục tiêu là giảm tỷ trọng LNG trong cơ cấu năng lượng từ 27,5% vào năm 2022 xuống 22,9% vào năm 2030 và xuống 9,3% vào năm 2036. Dự kiến rằng tỷ trọng của hạt nhân trong hỗn hợp sẽ tăng từ 29,6% vào năm 2022 lên 32,4% vào năm 2030 và 34,6% vào năm 2036. Tuy nhiên, không có gì đáng ngạc nhiên khi năng lượng tái tạo sẽ có mức tăng trưởng lớn, tăng từ 8,9% năm 2022 lên 21,6% vào năm 2030 và 30,6% vào năm 2036.
Công suất tái hóa khí của Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng với tốc độ mạnh mẽ
Trung Quốc là nhân tố xoay chuyển chính trong thị trường LNG toàn cầu. Trung Quốc có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc thị trường LNG toàn cầu bị thắt chặt hay dễ quản lý hơn như chúng ta đã thấy vào năm 2022. Năm 2023, Trung Quốc lấy lại vị trí là nhà nhập khẩu LNG hàng đầu, với tổng lưu lượng đạt 98 bcm, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn mức kỷ lục 110bcm nhập khẩu vào năm 2021
Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm về nhu cầu LNG trong 10 năm qua đạt gần 15%. Và với việc nhiều doanh nghiệp địa phương không kỳ vọng nhu cầu khí đốt trong nước sẽ đạt đỉnh trước năm 2040, nhu cầu vẫn được dự đoán sẽ tăng. Điều này cũng phù hợp với số lượng lớn các hợp đồng dài hạn mà người mua Trung Quốc đã ký kết trong vài năm qua và việc tăng cường năng lực tái hóa khí. Trung Quốc có công suất tái hóa khí hơn 190 bcm, dự kiến được xây dựng từ năm 2024 đến năm 2026.
Tuy nhiên, điều khiến việc đánh giá nhu cầu LNG của Trung Quốc sẽ tăng mạnh như thế nào là thách thức trước tiên, trước tiên, Trung Quốc sẽ phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên như một loại nhiên liệu tạm thời trong cơ cấu năng lượng. Tỷ trọng của khí đốt tự nhiên trong cơ cấu điện tăng trưởng rất khiêm tốn trong thập kỷ qua, tăng từ khoảng 2% lên 3,1%. Điều này cho thấy tăng trưởng nhu cầu có thể sẽ tiếp tục được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp, khu dân cư và thương mại.
Lĩnh vực tiêu thụ khí đốt tự nhiên lớn nhất ở Trung Quốc là công nghiệp, chiếm 34% tổng nhu cầu. Lĩnh vực sản xuất điện chỉ lớn thứ ba, chiếm thị phần 23% và chỉ đứng sau nhu cầu dân dụng và thương mại. Thứ hai, Trung Quốc tiếp tục phát triển sản xuất trong nước nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào khí đốt để nhập khẩu. Sản lượng khí đốt tự nhiên trong nước đã tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 6,8% trong thập kỷ qua, đạt 234 bcm vào năm 2023, tương đương 58% tổng lượng tiêu thụ nội địa. Chính phủ có thể sẽ tiếp tục nhắm tới nguồn cung nội địa ngày càng tăng. Môi trường địa chính trị đang xấu đi và tham vọng dài hạn chuyển đổi khỏi sử dụng than đã hỗ trợ cho xu hướng này.
Cuối cùng, dòng khí đốt qua đường ống đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng đối với Trung Quốc. Nhập khẩu đường ống đã tăng trưởng với tốc độ CAGR là 8,8% trong 10 năm qua. Có ba nguồn cung cấp khí đốt qua đường ống cho Trung Quốc: Trung Á, Nga và Myanmar. Có sự thúc đẩy rõ ràng từ Nga trong việc ký các thỏa thuận đường ống với Trung Quốc, do nước này đã mất thị trường trọng điểm là châu Âu. Dòng chảy của Nga từ dự án Viễn Đông Sakhalin dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2026, cung cấp thêm 10 bcm nguồn cung cấp đường ống. Nga cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ đường ống Power of Siberia 2, với công suất 50bcm.
Tuy nhiên, nếu dự án này được tiến hành, dòng chảy sẽ không bắt đầu trong thập kỷ hiện tại. Ngoài ra, cũng có ý định tiếp tục xây dựng Đường ống dẫn khí đốt Trung Á Tuyến D, chạy từ Turkmenistan đến Trung Quốc và có công suất 30bcm. Do đó, tiềm năng tăng thêm công suất đường ống dẫn vào Trung Quốc cũng ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng của LNG trong dài hạn.
Nhu cầu mạnh mẽ từ Nam và Đông Nam Á
Nam và Đông Nam Á là thị trường tăng trưởng quan trọng của LNG. Tuy nhiên, người mua ở những khu vực này cũng chủ yếu nhạy cảm về giá. Điều này đã được nhấn mạnh vào năm 2022 trong cuộc khủng hoảng năng lượng ở Châu Âu, nơi người mua trong khu vực đã lùi bước khỏi thị trường. Kể từ đó, nhập khẩu đã phục hồi khi giá LNG có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng đang chứng kiến những người mua mới tham gia thị trường. Trong những năm gần đây, năng lực tái hóa khí mới ở Philippines và Việt Nam đã khiến họ bắt đầu nhập khẩu LNG. Ngoài ra còn có một lượng lớn công suất tái hóa khí trong khu vực sẽ được bắt đầu trong vài năm tới. Điều này phần lớn được thúc đẩy bởi Ấn Độ, nơi chính phủ đã đặt mục tiêu tăng tỷ trọng khí đốt tự nhiên trong cơ cấu năng lượng từ khoảng 6% lên 15% vào năm 2030.
==============================
💯 Nếu bạn muốn tham gia giao dịch trên thị trường Forex, Vàng,…. bạn hãy ủng hộ admin bằng cách đăng ký sàn theo link dưới nha! Cảm ơn bạn rất nhiều 😘😘😘
🏆 Sàn Exness: https://one.exnesstrack.net/a/6meoii18rp
🥇 Mã giới thiệu: 6meoii18rp
(Nếu đã có tài khoản rồi thì tìm cách đổi ib Exness và làm theo nhé)